2013 BAI VIET
TỪ THÁNG 7 ĐẾN THÁNG 12 NĂM 2013
.
ĐÃ KHỞI ĐỘNG…!
TỪ 399 TIẾN ĐẾN KỶ NIỆM 400 NĂM.
Qua bao năm tháng chờ đợi, nôn nao…cuối cùng cũng có một tổ chức lưu tâm đến ngày đại kỷ niệm của Giáo hội Việt Nam: 400 năm rao giảng Tin mừng. Không ai dám phủ nhận những sử liệu, truyền thuyết ghi dấu chân ban đầu trên đất Việt của Inikhu (Nguyên Hòa nguyên niên, Lê Trang Tôn 1533), Ordonez de Cevallos (thế kỷ 16) … sự hiện diện của các tuyên úy dòng Đa Minh, dòng Phan Sinh, dòng Augúttinô trước năm 1600 tại Đàng Ngoài (nhà Trịnh, vua Lê), Đàng Trong (nhà Nguyễn), Đàng Trên (nhà Mạc).
Nhưng đến lúc phải đồng thuận, chính Dòng Tên có công lớn trong việc đặt nền móng dựng xây Giáo hội công giáo Việt Nam với trên 7 triệu giáo dân và 26 giáo phận hôm nay.
Và cái ngày đáng ghi nhớ đó với những nhân vật cụ thể đã được sử sách xác nhận là ngày 18 tháng 01 năm 1615, khi các linh mục Francesco Busomi (gốc Napôlitanô, nước Italia ngày nay), Diogo Carvahlo (Bồ Đào Nha) cùng ba thầy trợ sĩ Dias (Bồ Đào Nha), Paolo và Yude Saito (Nhật) đặt chân lên Cửa Hàn (Touron, Đà Nẵng) và sau đó đến Faifoo (Hội An, Hoài phố ? Hải phố ? Sài phố?)
Những người gia nhập giáo hội đầu tiên trên đất Việt là các bà vợ gốc Đàng Trong của Nhật Kiều và con cái thân yêu của họ. Để rồi với thời gian, con số tín hữu tăng lên cả số lượng và chất lượng khi các nho sĩ, tín đồ nhiều đạo giáo tuyên xưng Đức Chúa trời đất là Chúa Cả muôn loài. Một giới trí thức công giáo được hình thành giúp công cuộc rao giảng Tin mừng thâm nhập vào mọi thành phần dân tộc. Mười hai năm sau Đà Nẵng, Hội An, linh mục Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) (xứ Avignon, lãnh địa Giáo hoàng) và Pedro Marquez ( lai Bồ, Nhật) đã chuyển lửa tình yêu Thiên Chúa sang Đàng Ngoài vào năm 1627).
Hội Đồng Giám mục Việt Nam, Giáo phận Đà Nẵng nơi các nhà truyền giáo lận đầu đặt chân lên miền đất nầy chắc sẽ phải lưu tâm đến biến cố quan trọng nầy trong thời gian tới …! Còn Dòng Tên thì sao? Không lẻ cũng lặng im nhân danh đức … khiêm nhường! Rất may, con cái thánh Inhaxiô vừa công bố cử hành Năm thánh kỷ niệm 400 năm loan báo Tin mừng trên đất Việt và lập riêng một trang webb cho biến cố nầy. Tòa thánh cũng đã châu phê những thỉnh nguyện của Hội Dòng. Lại khiêm nhường nên các trung tâm hành hương lẩn quẩn nơi có sự hiện diện quan trọng của dòng, khiến các độc giả “théc méc” … sao không thấy Đà Nẵng, Hội An, Huế, Qui Nhơn … hè???
Xin giới thiệu các độc giả thân yêu địa chỉ các trang mạng trên và xin chúc mừng. Rất tiếc không còn ở Hội An!
. Dòng Tên Việt Nam dongten.net/
- Loan Báo Tin Mừng | A.M.D.G.
- loanbaotinmung.net/
SẮC CHỈ TÒA THÁNH BAN CHO DÒNG TÊN VIỆT NAM.
AN NGÃI NGÀY 9 THÁNG 01 NẴM 2014.
THÁNG 12 NĂM 2013
SẮP QUA ĐI…
2013 … LÙI VÀO QUÁ KHỨ.
Một ngày, một đời âm thầm đã, đã qua đi, không còn gì….(Trịnh công Sơn)
Không còn gì? Còn và còn rất nhiều.
Còn đó công, còn đó tội !
Chiều 30, lm Antôn vào lại bệnh viện Ung thư. Tưởng sẽ ở đây hai năm 2013 và 2014. Nhưng chiều cuối năm 2013, lại được về nhà, ngày 2 vào lại.
LẦN THỨ 3, VÀO LẠI BỆNH VIỆN.
Vài giờ nữa , 2013 chỉ còn là kỷ niệm.
Đã có nhiều ngày cuối năm như hôm nay, lm Antôn tự hỏi: sao mình được sống lâu thế, trong khi bao người thân yêu quen biết, khỏe mạnh lại không còn trên đời?
Qua bao cuộc chiến tranh, giữa bom đạn rền trời , cái chết luôn rình chực, bao người vĩnh viễn nằm xuống, sao mình còn đây? Hồi 49, 50, người ta lại nhắc “49 chưa qua, 52 đã tới” tuổi đàn ông hay “lên bàn thờ”, rồi cũng qua. Lm không hy vọng sống đến năm 2000. Vậy mà nay 2013 sắp kết thúc.
HAI TUẦN TẠI QUÊ NHÀ …
ĐỦ GÂY MỘT PHONG TRÀO TRỒNG TRỌT CHĂN NUỐI.
Chỉ xa bệnh viện hai tuần mà khi trở lại, khoa tạo máu, tuy rất ít người, cũng có ba bệnh nhân ra đi.
Ngày mai, không ai biết sẽ ra sao … xin phó dâng cho Chúa.
Hiện tại, xin dâng lời tạ ơn và tâm tình tạ tội vì thời giờ bỏ qua vô ích, coi thường ơn Chúa và xúc phạm giới răn Người.
Parce Domine! Xin tha thứ, Chúa ơi. Deo gratias. Tạ ơn Người!
QUÊ MẸ … NGUỒN SỮA THIÊN NHIÊN.
AN NGÃI,21 GIỜ 30 NGÀY 31 THÁNG 12 NĂM 2013.
NẾU CÒN SỐNG….
KỶ NIỆM 80 NĂM LINH MỤC
ĐỨC CHA PHÊRÔ MARIA PHẠM NGỌC CHI.
Qua bản tự khai sơ yếu lý lịch bản thân theo yêu cầu của Chính quyền, Đức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi đã cho biết những thông tin sau đây.
SƠ YẾU LÝ LỊCH.
I. Họ và tên thật : PHẠM NGỌC CHI
Sinh ngày 14-5-1909, tại Tôn Đạo, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.
Chỗ ở hiện nay : Tòa Giám mục Đà Nẵng- Quận 3- Đà Nẵng.
Tôn giáo : Thiên Chúa Giáo
Đảng phái : O
Nghề nghiệp : Giám mục- Hành đạo.
Thành phần gia đình : Con thứ 3 trong gia đình.
Dân tộc : Kinh
Trình độ văn hóa : Cao học ( về pháp luật và tôn giáo)
Ngoại ngữ : Pháp, Anh, Ý, Latinh.
Con ông Phạm xuân Quế ( chết), trước kia làm ruộng. ( xóa bằng bút chì)
Và bà : Vũ thị Én ( chết )
II.Quan hệ gia đình:
II. Quan hệ bản thân.
III. Họ và tên, tuổi : Phạm Ngọc Chi, 67 tuồi.
– Đi tu lúc 11 tuổi ( 1921)
– Học ở Chủng viện Ba Làng, Thanh Hóa ( 1921-1922)
– Học ở Chủng viện Phúc Nhạc,Yên Mô.Ninh Bình ( 1922-1927)
– Du học La- Mã ( Ý) ( 1927-1934)
– Chịu chức Linh mục ở La-Mã ( 1933)
– Du học tại Pa-ri ( 1934-1936)
– Về Phát Diệm ( Ninh Bình) là giáo sư và gíam đốc Đại chủng viện Phát Diệm ( 1936-1950)
– Tấn phong Giám mục Bùi-Chu ( 1951-1956).
– Làm Giám mục Qui –Nhơn ( Bình Định) ( 1957-1963)
– Làm Giám mục Đà Nẵng ( từ 1963 tới nay)
( Đà Nẵng ngày 08-1-1976)
Qua bản khai lý lịch trên, chúng ta biết được năm thụ phong linh mục , 1933, chính xác là ngày 23 tháng 12 năm 1933. Năm nầy cũng là năm rất vẻ vang cho Giáo hội Việt Nam, năm mà Đức Giáo hoàng Piô 11 tấn phong Giám mục cho Đức cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng, giám mục tiên khởi là người Việt Nam. Vào tháng 6 năm đó, Đức cha đã chụp hình chung với các chủng sinh Việt Nam học tại trường Truyền Giáo, Rôma. Đứng sau Đức cha Gioan Baotixita, từ trái sang phải là cha Phaolô Vàng, Thư ký Tòa Giám mục Sài Gòn, bên cạnh là đại chủng sinh Phaolô Bình (sau nầy là Tổng Giám mục Sài Gòn), hai chủng sinh kế tiếp gốc Phát Diệm mà người ngòai cùng bên phải là phó tế Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, người sẽ lỉnh chức linh mục vào những ngày áp lễ Giáng Sinh năm 1933, 23 tháng 12.
ĐẠI CHỦNG SINH PHAOLÔ NGUYỄN VĂN BÌNH.
PHÓ TẾ PHÊRÔ MARIA PHẠM NGỌC CHI.
Năm 1983, một năm trước khi về hưu trí tại Trà Kiệu, ngài đã âm thầm mừng Kim Khánh linh mục vào ngày 23 tháng 12.
Như vậy, nếu còn sống… Đức cha Phêrô Maria sẻ mừng lễ kỷ niệm tấn phong linh mục lần thứ 80.
AN NGÃI NGÀY 29 THÁNG 12 NĂM 2013.
LẠI MỘT MÙA NOEN NỮA.
LẦN NẦY TẠI QUÊ NHÀ AN NGÃI. 2013.
Những mùa Giáng Sinh trước, linh mục mục Antôn phải tất bật với bao nhiêu công việc, còn kể từ tháng 10, năm 2012, đã được “thong dong” hơn, ngoài việc dâng lễ đồng tế, cảm thấy mình cũng giống như mọi giáo dân khác thôi. Năm nay, do bệnh tật, không còn chọn lựa nào tốt hơn là về quê để được con cháu đùm bọc, giúp đỡ vì quá nửa dân làng là bà con thân thuộc.
Từ nhỏ đến 10 tuổi, trong tiết trời se lạnh, cậu bé Antôn cảm thấy vô cùng hạnh phúc khi Mùa Giáng sinh về. Ngày đó chưa có điện nhưng làng quê vẫn rực sáng với những ngọn đèn “trái ú” phất giấy bóng loại mờ hoặc trong, giữa thắp nến. Cả ngày cậu thích đến nhà thờ để xem các chú, các bác trổ tài làm hang đá và sao lạ. Năm nào cũng như năm nào, những khung tre được cột cẩn thận, giấy “xi măng” quét vôi và bồ hóng đen được phất lên, chỗ lồi nơi lõm, giống đá “hết chê”. Cỏ cây được xếp đặt vào những vị trí quan trọng trong đó không thể thiếu những cây chuối non, nhất là tìm cho được một bụi “đùng đình” nhiều thân với những chùm trái nâu tím cùng với những chùm hoa buông lơi, giống hệt cây trong các bức tranh vẽ Giáng sinh (sau nầy mới biết là cây chà là). Tụi nhỏ mắt tròn xoe miệng há hốc khi “ngôi sao lạ”, với cái đuôi dài phất giấy đủ màu, có chạy kim tuyến được kéo lên cao trong góc, tia sáng phải chiếu ngay vào hang đá. Từ phòng thánh, bộ “hài đồng” được mang ra, kìa là “Đức Mẹ”, thánh Giuse “chân đứng chân quỳ” y như trong kinh hát “Giuse thức dậy chân đứng chân quỳ”. Rồi Chúa Hài đồng xinh ơi là xinh , cũng như lời kinh “Ớ Chúa Hài đồng Giáng sinh bé bé, nửa đêm giờ tý Chúa mới hiện hình”. Giờ tý là giờ mô mi? Một đứa tỏ ra hiểu biết nói là giờ khuya đó. Giờ đó mình ngủ mất rồi!
Thánh lễ được cử hành vào lúc 12 giờ đêm nên các cậu nhóc Antôn khó tham dự trừ mấy năm 8, 9 tuổi trở lên.
Cứ thế bao kỷ niệm thời thơ ấu hiện về đêm nay.
Các ngã đàng quê An Ngãi , rồi Tùng Sơn, rồi Phú Thượng , Phú Hạ, Hòa Ninh, các giáo xứ “bạn” rực sáng vì những cổng chào, và những giây đèn đủ màu, huyền ảo trong đêm. Đây là “Tổng giáo” ngày xưa, nơi trước đây do phải “co cụm” để “giữ đạo”, dân công giáo hầu như toàn tòng. Trên cao núi Cây Sơn cũng rực sáng, ấn tượng nhất là sao lạ nhấp nháy trên cao độ 120 mét.
Ít nhất 3000 giáo dân và nhiều bạn bè không công giáo quanh vùng cũng đến dự Đêm Canh thức với Chủ đề Năm Thánh hóa gia đình . Từ câu chuyện gia đình A Đam, Eva đến gia đình bà Noemi và cô Rút, ngoại giáo nhưng sau nầy là “bà tổ” của Chúa Giêsu, rồi gia đình Tôbia đạo đức đến Thánh gia Nazareth, ban diễn nguyện đã đem lại những suy tư cho người lớn và niềm hân hoan cho đám thiếu nhi ( như cậu bé Antôn ngày xưa).
AN NGÃI NGÀY 25 THÁNG 12 NĂM 2013.
GIÁNG SINH 2013 .
MỤC ĐỒNG XÓM BÀU KÍNH CHÚC QUÝ ĐỘC GIẢ VÀ TẤT CẢ
MỘT MÙA GIÁNG SINH 2013 THÁNH THIỆN AN BÌNH
GIÁO XỨ AN NGÃI, ĐÀ NẴNG 24 THÁNG 12 NĂM 2013.
MỪNG “trung” LỄ KỶ NIỆM 42 NĂM LINH MỤC.
Hôm nay thứ bảy 21 tháng 12 năm 2013, tại Xóm Bàu, An Ngãi Tây, xã Hòa Sơn, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng linh mục Antôn mừng kỷ niệm 42 năm linh mục. Vùng nầy khá nổi tiếng trong lịch sử mang tên Bàu Nghè từ thế kỷ 16 nhất là 17. Sau nầy, nhiều nhà nghiên cứu chẳng hạn Adrien Launay Mep, trong Tài liệu lịch sử Đàng Trong (Documents historiques de la Cochinchine) đã ghi chú Bàu Nghè là Bàu Gốc, tỉnh Quảng Ngãi. Cũng may, trong tấm bản đồ của Giám mục Taberd năm 1838 ghi rõ địa danh nầy gần Đà Nẵng và Tú tài Trần Nhật Tỉnh trong Hòa Vang Huyện Chí viết vào cuối thế kỷ 19 cho biết An ngãi đông, An ngãi tây xưa có tên là Bàu Nghè. Khu vực nầy vào cuối thế kỷ 17 được gọi là “paradis des missionnaires” (thiên đàng của các nhà truyền giáo) vì có đến 8000 giáo dân. Qua bao biến cố thăng trầm lịch sử mộng “tranh bá đồ vương” đảo điên cả một vùng quê, vẫn còn đó mười mấy ngàn giáo dân đang bị quay cuồng trong cơn lốc đô thị hóa.
Linh mục dự định mừng kỷ niệm thật âm thầm nhưng vào giờ chót có vài thay đổi.
PHẦN LỄ:
Hai “quý tử”, hai anh em đồng hương và một cựu phó xứ (ai dám bảo cha sở cha phó…như “hai cô ca sĩ không …khen nhau bao giờ”) đã kịp đến dâng lễ đồng tế với sự tham gia của một số bà con lớn tuổi. Linh mục Antôn lại ‘hăng say” với đề tài giấy “Chứng minh linh mục” phải ghi thêm Homo Dei (người của Thiên Chúa). Người thì yếu hèn, tội lỗi, bất tài, đầy tính mê nết xấu … tắt một lời là tro, là bụi, là đất thó… Của Thiên Chúa, có dấu ấn bàn tay, quyền năng và tình yêu Đấng Tối Cao, mọi sự sẽ khác. Bình sành mang dầu thơm quý giá. Cục than trong tay “Đại văn, thi sĩ”, Đại danh họa… bao tuyệt phẩm sẽ ra đời.
TƯỞNG RẰNG NGƯỜI ĐỨNG GIỮA CHẾT…
THẾ NHƯNG BA VỊ KIA ĐÃ QUA ĐỜI!
PHÉP LÀNH ĐẦU ĐỜI TÂN LINH MỤC VÀ ĐÁM RƯỚC “VINH QUI”!
Hai tay nhỏ bé nhăn nheo theo tuổi già run run dâng lên Mình và Máu Thánh Chúa như buổi lễ ban đầu cách đây 42 năm, không biết người khác nghĩ gì nhưng lòng đương sự xao xuyến vô bờ.
PHẦN LẠC.
Lễ “vinh quy” năm 1971, lúc đầu, gia đình định tổ chức theo lối mới, chỉ mới một nhóm nhỏ vào buổi trưa “lễ mở tay” nhưng cuối cùng cũng theo “lệ làng”. Lý do nhiều giáo dân nghèo cảm thấy tủi phận, phải chăng mình nghèo nên không được chung vui với xứ đạo, mình đến đâu phải vì miếng ăn mà vì vinh dự có người con quê hương được “Chúa chọn”.
Lễ “vinh qui”, cứ theo lệ cũ, diễn ra mấy ngày liên tiếp, chỉ tội “cha mới … tân linh mục” ngắc ngư vì không có giờ ngủ. Hết hội đoàn lại tới bà con, kẻ cả không công giáo từ rất xa cũng về mừng … linh mục Antôn cảm thấy xấu hổ vì mình đâu là gì y như lời bài hát hôm đó “bụi tro, ôi thân con là bụi tro đâu đáng chi, mà Chúa thương thân phận mọn hèn …”. Quà tặng là hoa màu ruộng đất, thường là một con heo cạo sạch lông nằm gọn trên khay, có khi là chú heo quay, có nhóm dắt nguyên một chú bê con … Gia tộc chuẩn bị từ xa một trâu nghé, nung núc thịt. Cứ thế mà vui với nhau … Chỉ có cái mới là vào thời “Mỹ ngụy”, thay vì rượu đế nguy cơ “ăn nói loạn xị” họ uống “coke” (Coca cola), “ xaxilaxe” (xá xị … ướp lạnh, glacer) và bia Larue, con cọp chai cao.
BÀ CON BÊN NỘI.
CÁC VỊ NAY ĐÃ … ĂN TIỆC TRÊN TRỜI!
CHÁU PHONG NGÀY ĐÓ 3 TUỔI … NAY LÀ BẾP TRƯỞNG !
LÀNG … NƯỚNG!
TƯỞNG NHỚ TIỀN NHÂN VỚI MÓN CƠM BÓ MO CAU GHẾ KHOAI
CHẤM MUỐI MÈ, ĐẬU PHỤNG. GIỚI TRẺ HƯỞNG ỨNG NHIỆT LIỆT.
CHÚC MỪNG LÀ XIN CHÚC MỪNG.
CÁC Y, BÁC SĨ KHOA “TẠO MẪU” (TẠO MÁU) CỮNG ĐẾN CHUNG VUI.
Năm nay, không dám mời cả làng, nhưng cũng có nhiều khách quý “trong đạo, ngoài đời” thu nhỏ. Hiến lễ “tam sinh” một chú heo rừng vườn trại Hội An và nhưng con thỏ, gà cây nhà lá vườn…do cháu con cung cấp. Lửa nổi lên giữa trời im mát, se lạnh, mọi người cảm thấy ấm áp, vui vui.
BÀU NGHÈ 21 THÁNG 12 NĂM 2013.
HỒI TƯỞNG.
MỘT CHẶNG ĐƯỜNG 42 NĂM.
Thời gian qua mau, linh mục Antôn sắp mừng 42 năm linh mục. Quãng đời dài hơn cả cuộc sống vua Khải Định. Mồ côi cả cha lẫn mẹ, khi vừa đến tuổi khôn, 7 tuổi, không có ai để tâm sự, không một ai hiểu rõ lòng mình.Cậu bé sợ Chúa phạt hơn là yêu, vì chưa biết Chúa là Cha hiền. Cậu nép mình vào thiên nhiên.
Thiên nhiên giờ là cha
Là vòng ôm của mẹ
Ru hồn qua tuổi trẻ.
Rồi một ngày cuối tháng 8 năm 1954, cậu bé được tuyển vào Tiểu chủng viện Nha Trang. Có lẽ do sự tính toán sắp xếp của nhiều người, theo truyền thống dâng hiến của đại tộc nội, ngoại khi xem ra: thằng nầy có “tướng” làm linh mục. Cậu là hy vọng của gia đình và xứ đạo.
Phần mình, được học hành, đi đây đi đó, kết bạn với nhiều người … xem ra cũng thú vị. Nhiều lúc cậu mong bị “đuổi” khỏi Chủng viện để được trở về với quê hương, bà con. Có lần cả lớp gồm 5 tên, rất “quý hiếm” của Giáo phận Qui Nhơn (nhưng lại ở Nha Trang) vào thời điểm 1956, do quậy phá, bị Bề trên Joseph Clause Hồng Mep, “đuổi về thế gian”. Cả bọn 13, 14 tuổi, mừng hết lớn, lên kế hoạch cho ngày “trở về”. Rủi thay, niềm hy vọng sớm “tắt ngủm”, vì chỉ vài giờ kế tiếp, sau khi cả bọn “thú nhận tội lỗi”, không thấy Bề trên … nói gì thêm! Tiếc hùi hụi! Dần dần, cậu ý thức hơn về lý tưởng của mình. Năm 1967. ở Chủng viện Tân Phước ( khu B Bùi Chu) gần Bà Rịa, Long Hải, cậu nắn nót viết vào nhật ký câu “châm ngôn” tìm thấy trong một cuốn sách đạo đức: “Với đời em, Thiên Chúa muốn làm nên những điều cao cả. Hoài phí là làm tủi nhục cho Thiên Chúa và di hại cho đời em”. Hóa ra mỗi đời sống quan trọng đến thế cơ à!
Năm 20 tuổi, 1963, sống tại xứ Hoa đào mộng mơ, Đà Lạt. Tình Chúa hay tình đời! “Tuổi đôi mươi! Tuổi tràn đầy nhựa sống, tuổi hoạt động và yêu đời… Trước ngã ba đường, chàng trai tư lự, suy nghĩ mông lung, và chàng có quyền suy nghĩ tìm lấy một lối đi … tìm đến một lý tưởng cao siêu … Chàng suy nghĩ đắn đo, phân vân quyết định con đường chàng sẽ đeo đuổi mai ngày. Chàng có quyền định đoạt lấy tương lai và không ai ngăn cấm chàng được…” Nghe khí thế quá!
Từ 22 đến 26, khi “tình đời” lấn lướt, chàng nghiêng ngã giữa bao việc chọn lựa, không ai ngăn cấm chàng nhưng việc chọn lựa đâu dễ dàng.Chàng rên siết, than vản, tiến tới rồi lùi lại. Lúc tỉnh táo, khi liều lỉnh. Mùa hè 1965. “Đường nào thì tôi cũng phải hy sinh nhưng biết chọn ngã nào bây giờ? Ngã nào cũng chưa đầy những vẽ đẹp, những quyến rũ mà hồn tôi dang khao khát … tất cả đã gồm lại trong một chữ YÊU, một chữ yêu gọn lỏn nhưng chất chứa biết bao khúc mắc khôn dò. Tôi cảm thấy khổ sở khi phải chọn một trong hai đường vì tôi tham quá.! Chiều nay tôi cảm thấy lạc lỏng bơ vơ; hồn tôi chỉ là một đêm tối không một ánh sao chỉ đạo!…Tôi sắp nghiêng về phía tình đời…” …Nếu tôi có một sức mạnh phi thường để lướt thắng thế gian và tội lỗi … Nếu tôi!!! Thì đâu có đến nỗi phải sống những giây phút nặng nề và chua xót như hôm nay.” Tội nghiệp ghê hỉ!
Việc dằng co nầy không phải chỉ một giai đoạn ngắn, mà kéo dài nhiều năm tháng. Có những lúc lòng chàng phơi phới trên con đường dâng hiến, nhưng rồi có nhiều lúc chùng xuống. Từ ngày tôi biết yêu. Tôi lạc lỏng đi tìm Một tình yêu tuyệt đối … Ai cho tôi tình yêu. Ai bắt tôi phải yêu. Mà sao yêu chưa trọn, mà sao mến chưa đầy. Tình đà tan mây khói? …
Cuối cùng, sau bao đắn đo và chiến đấu, nhờ ơn Chúa giúp, tuy mù mờ về đoạn đường tương lai, chàng quyết định bước vào thánh cung tháng 12 năm 1971. Dù mình chẳng là gì. Dù tình chẳng là bao. Xin dâng trọn về Ngài và nhân loại anh em.
Hai năm phó xứ Tam Tòa 1972- 1974. Một năm Đại học Minh Đức khoa truyền thông xã hội chưa trọn 1974- 75. Mười bốn năm nơi Thánh địa Trà Kiệu 1975-1989. Bốn năm Chính Tòa Đà Nẵng 1990 -1994. Ba năm Paris, Pháp Quốc để nhận một văn bằng lịch sử Giáo hội. Tám năm Giáo xứ Thanh Bình 1998- 2006. Năm năm Phố cổ Hội An 2006-2012.
Và bây giờ vào tuổi “cổ lai hy”, thêm bệnh tật hoành hành, “lão lai tài tận..kiếp trâu già”, “có mới nới cũ” … lão phải chấp nhận “giơ tay cho người ta thắt lưng” và dẫn đi đâu…tùy ý. Nhiều người thương hại lão.
Còn lão, hôm nay, sau hơn nữa thế kỷ cũng như 42 năm nhìn lại ….lão rất vui thấy rằng việc hy sinh dâng hiến cuộc đời cho: Thiên Chúa, Giáo hội, xã hội, con người … cũng không đến nỗi tệ. Và nếu có thể bắt đầu lại đời mình, lão cũng không ngần ngại chọn đời linh mục, “homo Dei” (người của Chúa), người là vô nghĩa, tro bụi, yếu hèn … nhưng của Chúa thì vô cùng nhiệm lạ. Đời linh mục quả là đáng sống, nếu tin “TÌNH YÊU VÔ BIÊN” có thật! AN NGÃI (BÀU NGHÈ thế kỷ 17) ngày 18 tháng 12 năm 2013.
MUỐI ĐỜI ĐƯỢC THU VỀ KHO TRỜI.
AN TÁNG TÔMA NGUYỄN THÔNG THI (1951 – 2013)
Sự gì phải đến, đã đến. Cuối cùng, chị Chết, nói theo kiểu thánh Phan Sinh Assidi đã đến rước em về vùng “Trời mới đất mới”. Là con người, đại gia đình và bạn bè thương nhớ em nhưng không thể làm gì hơn. Tất cả tin vào Lời Chúa : Ngài sẽ lau khô những giọt lệ và sẽ là hạnh phúc vĩnh hằng cho em. Xa rồi Qui Nhơn (Làng Sông), Huế (Pellerin), Đà Lạt ( Đại học Thụ Nhân, khoa Kinh Doanh Chính trị), xa rồi các Công ty muối Miền Trung nơi em, bè bạn và anh đã từng vui sống, phục vụ. Nhiệm vụ gia đình, xã hội, Giáo hội đã hoàn tất, em hãy yên nghỉ và hổ trợ, động viên cho những ai chưa tới đích.
ĐẠI HỌC CÔNG GIÁO ĐÀ LẠT 1970.
ẢNH TRƯỜNG THĂNG. NHÌN TỪ GIÁO HOÀNG HỌC VIỆN.
LẦN CUỐI EM ĐẾN BỆNH VIỆN, NƠI ANH EM GĂP NHAU.
LỄ AN TÁNG EM, ANH KHÔNG VỀ ĐƯỢC, NHƯNG HIỆP Ý CẦU NGUYỆN.
NƠI ĐÂY, EM ĐÃ LO CHO MỌI NGƯỜI CHỐN YÊN NGHỈ TẠM THỜI,
NAY CON CHÁU LẠI LO CHO EM.
BVUT ĐÀ NẴNG 6 THÁNG 12 NĂM 2013. (HÓA TRỊ ĐỢT 2)
MÙA VỌNG, MÙA HY VỌNG!
Vào Mùa vọng năm nay, khi bị bệnh tật vây quanh, linh mục Antôn cảm nhận được sự mỏng dòn của kiếp nhân sinh và đâu là điểm tựa vững chắc thật sự. “Con đặt hy vọng vào Chúa, tin tưởng vào Lời Chúa hứa…”. Bao nhiêu lần đọc và hát những câu nầy, khi còn khỏe mạnh, chẳng mấy quan tâm, trong Mùa vọng năm nay, sẽ thấm thía hơn. Được tình Chúa, tình người nâng đỡ, đời đẹp biết bao.
Nhóm Trợ tang Thanh Bình nhân một chuyến đưa xác…viếng thăm.
Ca đoàn…già… Trà Kiệu.
Hôm nay, ngày 2 tháng 12 năm 2013, theo lịch hẹn, phải trở lại Bệnh viện chuẩn bị hóa trị đợt 2. Nhiều bạn được về nhà nghỉ một thời gian. Gặp lại nhau, vui mừng như những người thân thiết.
Kẻ tóc giả, người mũ sụp, là thành viên lymphona Hodgkin,
nhưng chung tôi cười rất tươi.
BVUT ĐÀ NẴNG NGÀY 2 THÁNG 12 NĂM 2013.
THÁNG 11 NĂM 2013
ĐẤT MẸ CHỞ CHE.
Sau khi vào hóa chất đợt một, bệnh viện cho phép về tĩnh dưỡng một thời gian. Về đâu bây giờ ??
Cuối cùng thì gia đình , quê hương vẫn là nơi nương tựa vững chắc.
MẸ LÀ NƠI CON NƯƠNG TỰA.
THĂM VIẾNG KẺ “LIỆT LÀO”.
CHA GIÁM ĐỐC VÀ BAN GIÁO SƯ ĐCV XUÂN BÍCH, HUẾ.
AN NGÃI TÂY (BÀU NGHÈ, THẾ KỶ 17) 25 THÁNG 11 NĂM 2013.
MỪNG ĐẠI LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO V.N.
Hạt giống thối rồi, cây đã mọc
Từ lòng đất mẹ, mùa bao la
Ngày đi gieo, vừa gieo vừa khóc
Ngày trở về, ôm bó lúa hoan ca.
(Trich Thánh thi Kinh chiều I)
ĐN 17 THÁNG 11 NĂM 2013
TIN TỨC “THIÊN ĐĂNG” !
Sau ba tuần xét nghiệm, bệnh tình nay đã rõ… Ngày 14 tháng 11 năm 2013, lm Antôn được … “vô thuốc”. Hai bình thuốc đầu chưa phản ứng gì. Đến bình thứ ba, bắt đầu ớn lạnh, rét run, yêu cầu đắp chăn, mặc áo ấm, nhưng y tá lại bảo làm ngược lại, là cởi bớt áo, chỉ xoa nước ấm để chống lại sốt. Nhiệt kế lên trên 39 độ. Mà hay thiệt, sau khi uống thuốc hạ sốt và làm như vậy….sốt bớt dần. Nay bệnh viện cho “tẩy độc” … phần kế tiếp, chắc độc giả có thể đoán ra.
Trong những ngày qua, cha Tuyên úy các Bệnh viện đem “viaticum” (của ăn đi đàng là Mình thánh Chúa) và nhiều người viếng thăm an ủi…Xin chân thành cám ơn.
BVUTĐN 16 THÁNG 11 NĂM 2013
TAI QUA, NẠN KHỎI.
Suốt ngày hôm qua, dân chúng thành phố Đà Nẵng thấp thỏm như ngồi đống lửa. Chẳng ai còn tha thiết ăn chơi, nhậu nhẹt…Mọi người lo an toàn cho gia đình , nhà cửa và bản thân. Cát, sạn kể cả “giá hạ” cũng trở thành quý giá. …Khắp như một công trường xây dựng, mọi người lo chèn, chống, tháo gở những gì có thể bị thổi tung. Khẩn trương như thời chiến tranh!
TỤ TẬP LÀM GÌ? THƯA, ĐI LẤY CÁT!
Mọi người hồi hộp chờ đợi “tai họa” ập xuống…Trong đêm, lm Antôn thỉnh thoảng cũng hé cửa nghe ngóng xem có gió to, mưa lớn không?
Thành phố vẫn tưng bừng ánh sáng…dù im ắng vì không ai dám mạo hiểm ra đường.
Phải chăng bão đến muộn? Các nhà thờ lùi giờ thánh lễ Chúa nhật. Đến “nửa buổi” rồi trưa cũng chỉ là những đợt gió, mưa nhẹ.
Cuối cùng, mọi người thở phào khi biết bão không đổ bộ và đã vượt qua vĩtuyến 17.
Mọi người cám đội “ơn trên”.
Nhưng ngày mai có lẻ “thôi rên quên thầy”, dân thành phố lại quên đi tất cả để tiếp tục cuộc sống “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”!
BVUTĐN 10 THÁNG 11 NĂM 2013.
QUÝT LÀM …. CAM CHỊU !
Mức độ nguy hiểm của siêu bão
Giám đốc Trung tâm khí tượng thủy văn T.Ư, ông Bùi Minh Tăng cho biết khu vực đất liền Việt Nam chưa từng đón bão đến mạnh cấp 13. Nhưng theo kinh nghiệm từ các nước từng đón siêu bão, thì bão Haiyan sẽ có sức tàn phá thảm khốc, được mô tả như sau:
Người, gia súc và vật nuôi có nguy cơ bị thương hoặc tử vong do mảnh vỡ rơi hoặc bay xuống, ngay cả khi ở trong nhà cấp 4 hoặc nhà khung. Gió bão có thể phá hủy gần như hoàn toàn nhà cấp 4. Một tỷ lệ lớn các nhà khung sắt, khung bê tông sẽ bị phá hủy với toàn bộ mái, tường sụp đổ, thổi bay cửa sổ, cửa ra vào. Các mảnh vỡ bay theo gió bão trong không khí có tốc độ như tên bắn, gây sát thương lớn. Các bức tường gạch không có cốt thép có thể bị sụp, dẫn đến sụp đổ cả tòa nhà.
Ở các tòa nhà cao tầng, gió báo sẽ làm vỡ kính, thổi bay cửa sổ và có thể gây đổ tòa nhà; các tòa nhà công nghiệp, nhà cấp 3, cấp 4 sẽ bị phá hủy với tỷ lệ lớn. Gần như tất cả biển quảng cáo, hàng rào, pano, áp phích sẽ bị phá hủy. Cây cối gãy đổ hoặc bật gốc. Cột điện bị đổ, mất điện sẽ kéo dài, cô lập các khu dân cư.
Khi điện chưa bị cúp nhiều ngày, khi mạng Internet còn hoạt động, lm Antôn tranh thủ vài hàng chào thăm quý độc giả thân mến. Nếu như dự báo về bão Hải Âu chính xác , Miền Trung sẽ thế nào?
Mỗi năm nước Philippines và Việt Nam gánh chịu vài chục trận bão… “họ có tội lỗi hơn các nước khác chăng?” Nếu hỏi Chúa Giêsu ngài sẽ trã lời : Không phải thế! Quy luật của thiên nhiên hàng triệu năm qua vẫn vậy. Gió lạnh mang mưa sẽ bị hút về vùng cần nước, cần mát để cho “mưa thuận gió hòa” với điều kiện thảm thực vật và môi trường thiên nhiên ổn định. Thế giới hôm nay không còn giữ thưỏ địa đàng “thiên địa nhân hòa”, con người muốn “cai trị” và thảm họa thiên nhiên càng ngày tàn khốc. Không phải người Phi, người Việt…gây ra bão mà các nước phá rừng, phát triển kỹ nghệ, hâm nóng trái đất là nguyên nhân chính. Họ không thể phủi tay trách nhiệm. Bao hội nghị toàn cầu hay cấp quốc gia về khí hậu… cũng để cho qua chuyện, chỉ những người nghèo, cuộc sống bấp bênh, nhà cửa tạm bợ phải “lảnh đủ”
Đúng là ‘quýt làm…cam chịu”!
Than ôi!
Bệnh viện chúng tôi đang điều trị mang tên rất dễ thương “ung thư” cũng có phương án chống bão là đóng kín các cánh cửa, không cho gió ùa vào… ngoài ra chỉ còn biết “cầu nguyện và phó thác ”!
Xin mời đọc bài viết cách đây ba năm, có gì không phải “xin niệm tình tha thứ”!
Hẹn gặp lại sau khi bão tan và các đường dây được nối lại! Adios!
BÃO LỤT MIỀN TRUNG :
THIÊN TAI HAY NHÂN TAI??
SUY TƯ NHÂN ĐỌC KÝ SỰ ĐÀNG TRONG CỦA
NHÀ KHOA HỌC, KIÊM TRUYỀN GIÁO
CRISTOFORO BORRI ĐẦU THẾ KỶ 17.
http://antontruongthang.com/l%E1%BB%8Bch-s%E1%BB%AD/bao-l%E1%BB%A5t-mi%E1%BB%81n-trung-thien-tai-hay-nhan-tai-suy-t%C6%B0-nhan-d%E1%BB%8Dc-ky-s%E1%BB%B1-dang-trong-c%E1%BB%A7a-nha-khoa-h%E1%BB%8Dc-kiem-truy%E1%BB%81n-giao-cristoforo-borri-d/
BÌNH YÊN …TRƯỚC KHI BÃO ĐẾN.
KHU VỰC HÒA MỸ, NHÌN TỪ PHÒNG LM ANTÔN.
LẠI SIÊU BÃO NHẮM THẲNG DUYÊN HẢI VIỆT NAM.
BÃO HẢI ÂU THÊM LO ÂU.
Dự báo trong 24 giờ tới, bão di chuyển nhanh theo hướng giữa tây và tây tây bắc, mỗi giờ đi được khoảng 30km. Đến 4g sáng 8-11, vị trí tâm bão ở trên vùng biển phía đông nam Philippines. Sức gió mạnh nhất vùng gần tâm bão mạnh cấp 17 (202-221 km/giờ), giật trên cấp 17.
Trong khoảng 24-48 giờ tiếp theo, bão tiếp tục di chuyển nhanh theo hướng giữa tây và tây tây bắc, mỗi giờ đi được khoảng 30km. Đến 4g ngày 9-11, vị trí tâm bão cách đảo Song Tử Tây (thuộc quần đảo Trường Sa) khoảng 600km về phía đông đông bắc. Sức gió mạnh nhất ở vùng gần tâm bão mạnh cấp 14, cấp 15 (150-183 km/giờ), giật trên cấp 17.
Do ảnh hưởng của hoàn lưu bão, từ đêm 8-11, vùng biển phía đông biển Đông gió mạnh dần lên cấp 9, cấp 10, sau tăng lên cấp 12, cấp 13, vùng gần tâm bão đi qua mạnh cấp 14, cấp 15, giật trên cấp 17. Biển động dữ dội. (Theo báo Tuổi Trẻ online)
THÂN PHẬN CỎ ĐỒNG HOA NỘI.
VỀ QUÊ AN NGÃI THĂM NGHĨA TRANG GIÁO XỨ.
CÒN NHỚ HAY ĐÃ QUÊN…
NGHĨA TRANG LINH MỤC GIÁO PHẬN ĐÀ NẴNG.
BÊN NHỮNG NGƯỜI THÂN YÊU… KHÔNG BAO GIỜ NGĂN CÁCH.
GIỜ NẦY CÒN GẦN NHAU. MAI ĐÂY SẼ THẾ NÀO.
EM HỌ TÔMA THI…TRONG NHỮNG GIÂY PHÚT TỈNH TÁO.
EM MÃI YÊU ANH…
AN NGÃI NGÀY 6 THÁNG 11 NĂM 2013.
TƯỞNG NHỚ VÀ CẦU NGUYỆN
CHO ÂN SƯ, BẰNG HỮU, ÂN NHÂN
CHỦNG VIỆN LÀNG SÔNG, QUI NHƠN.
MỖI NĂM, MỖI VẮNG THÊM…
TAM TÒA , ĐÀ NẴNG 7/11/2013.
CẦN CÓ THỜI GIAN.
Chắc chắn không thể nào trở lại thời đôi mươi, ba mươi.
ĐÔI MƯƠI.
TRÀ KIỆU… BA TƯ.
CHO DÙ CÓ NHIỀU CỔ ĐỘNG VIÊN VIẾNG THĂM.
NHƯNG CÓ LẺ CŨNG SẺ NHƯ HÌNH NẦY. HIHI.
BVUTĐNA 5 THÁNG 11 NĂM 2013.
Bệnh viện thật đẹp, trang bị tối tân, ai cũng trầm trồ khen ngợi, nhưng không ai muốn vào…vì cái tên đã nghe quá thê thảm và rùng rợn…BỆNH VIỆN UNG THU, hay UNG BƯỚU. Vào đây, xem ra đời tàn. Lm Antôn thấy mình cũng chưa đến nỗi nào…thế mà lại được “hân hạnh” nhập viện. Cho đến lúc nầy chỉ biết nói “hên xui” “năm mươi năm mươi” vì chưa có lời kết về kết quả xét nghiệm…Phần “xui” xem ra thắng thế. Nhân lễ Chư Thánh và Cầu cho các tín hữu qua đời, linh mục đọc lại mấy bài viết khi mình chưa “đổ lệ” để tự động viên và thử kiểm lại niềm tin về bốn sự sau cùng mà mình đã “thao thao giảng dạy”.
CHIẾN ĐẤU VÀ CHIẾN THẮNG : SUY NIỆM NHÂN NGÀY
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ 01 -11.
TOÀN BÀI :
….Do đó, đã là người thì “ nhân vô thập toàn” là cái chắc. Khi đọc hạnh Các thánh mà chỉ nghe những lời xông hương ngào ngạt …thấy cũng hơi khó tin như ngày nay người ta ca tụng lãnh tụ nầy nọ. Rồi từ đó đâm ra tự ti “ như vầy mình nên thánh sao cho đặng”. Do ác quả của tôi nguyên tổ, con người dễ dàng tuột dốc hơn là trèo dốc. Nghiêng về sự ác, sự tội hơn là điều thiện, đàng lành. Bên cạnh xác thịt là tên “nội tuyến”, lại còn thêm thế gian và ma quỷ nữa. Trước những “ thế lực đen tối” trên nếu không có ơn Chúa “ thì ai nào đứng vững được”. Nhưng tin tưởng vào lời thiên thần “ không việc gì mà Chúa không là được”. Bám víu vào lời Chúa trong Hiến pháp Nước Trời là Tám mối phúc thật( Matthêô 5,1-12) mà Giáo hội Việt Nam diễn đạt qua Phúc thật tám mối: Thứ nhất: ai có lòng khó khăn, ấy là phúc thật, vì chưng nước Đức Chúa Trời là của mình vậy.Thứ hai: ai hiền lành, ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được đất Đức Chúa Trời làm của mình vậy. Thứ ba: ai khóc lóc, ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được yên ủi vậy. Thứ bốn: ai khao khát nhân đức trọn lành, ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được no đủ vậy. Thứ năm: ai thương xót người ấy là phúc thật, vì chưng mình sẽ được thương xót vậy. Thứ sáu: ai giữ lòng sạch sẽ ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được thấy mặt Đức Chúa Trời vậy. Thứ bảy: ai làm cho người hòa thuận, ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được gọi là con Đức Chúa Trời vậy. Thứ tám: ai chịu khốn bạn vì đạo ngay, ấy là phúc thật, vì chưng nước Đức Chúa Trời là của mình vậy. Đây là cẩm nang của “ lò luyện thánh”! Các thánh có danh, có quê hương gốc gác đã đành mà còn hàng hàng lớp lớp các vị thánh rất xa lạ với chúng ta đến từ các châu lục. Các thánh ghi tên sổ bộ Giáo hội nhưng còn bao nhiêu vị khác trong đó có tổ tiên, ông bà cha mẹ, bà con cô bác, anh chị em, bạn bè ; có khi là vợ, là chồng, là con cái trong gia đình. Các thánh đã được rửa tội và các thánh chưa biết Tin mừng Chúa, nhưng ăn ngay ở lành theo tiếng lương tâm vẫn được Chúa cứu chuộc như trường hợp tổ tiên ông bà Việt Nam chúng ta thời chưa biết đạo thánh. Họ từ đâu mà tới? Bài đọc thứ hôm nay trích từ sách Khải Huyền của Thánh Gioan. “Tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: “Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Đấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên”. Rồi một trong các trưởng lão lên tiếng hỏi rằng: “Những người mặc áo trắng này là ai vậy? Và họ từ đâu mà đến?” Tôi đáp lại rằng: “Thưa ngài, hẳn ngài đã rõ”. Và người bảo tôi rằng: “Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên”. “ Đau khổ lớn lao mà đến” như vậy làm thánh đâu phải dễ. Đây đâu phải là cuộc đi bộ nhẹ bước trên đường rải thảm hoa mà phải qua đường thánh giá, là qua cổng hẹp, là phải từ bỏ. Các văn thi sĩ nhắc nhở: Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả. Anh hùng hào kiệt có hơn ai.
( Giả sử tiền đồ tận di thản Anh hùng hào kiệt giã dung thường. Chí sĩ Phan Bội Châu)
Đường đi khó không vì ngăn sông cách núi , mà khó vì lòng người ngại núi e sông. ( Nguyễn Bá Học) Qua các câu chuyện trên chúng ta nhận ra rằng rất ít người “ nên thánh bẩm sinh” mà nên thánh phải nghe lời thánh Phaolô khuyên như xưa ngài đã nhắc nhở Timôthêô “Hỡi người của Thiên Chúa, hãy theo đuổi đức công chính, lòng đạo hạnh, Đức Tin, Đức Ái, đức nhẫn nại, đức hiền lành. Con hãy chiến đấu trong cuộc chiến đấu chính nghĩa của Đức Tin. Hãy cố đoạt lấy Sự Sống đời đời mà con đã được kêu gọi tới và cũng vì đó, con đã mạnh dạn tuyên xưng Đức Tin trước mặt nhiều nhân chứng”( Tm 6, 11 – 12). Nói chung nên thánh là do biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành. Là dựa vào lời cầu nguyện, là hy sinh hảm mình, là biết sám hối… là quyết chiến , quyết thắng. Trong các việc ấy, sám hối là quyết định “ then chốt” ! Hình như có 99.9% các vị trở thành thánh đi con đường nầy! Thánh Phaolô trong thư gửi Giáo đoàn Êphêsô ( Eph 6:10-20) ngài mô tả cuộc chiến thiêng liêng qua hình ảnh người chiến binh thời cổ: 10 Sau cùng, anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. 11 Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ. 12 Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao. 13 Bởi đó, anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa; như thế, anh em có thể vận dụng toàn lực để đối phó và đứng vững trong ngày đen tối. 14 Vậy hãy đứng vững: lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính,15 chân đi giày là lòng hăng say loan báo tin mừng bình an; 16 hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó anh em sẽ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần. 17 Sau cùng, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa. 18 Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi.Ông kia bà nọ nên thánh tại sao tôi không? ( Thánh Augúttin ) Không nên thánh thì đi đâu? Các em công giáo ngày xưa ưa chơi trò : Thiên Đàng Hỏa Ngục. Thiên đàng hỏa ngục hai quê Ai khôn thì về ai dại thì sa. Đêm nằm tưởng Chúa, nhớ Cha Dọc kinh lần hột kẻo sa linh hồn. Ơn gọi cuộc sống trần thế không phải là trò chơi, thế nào cũng được, mà là một cuộc chiến đấu giữa hai bờ sinh tử với kết quả là hạnh phúc hay khốn khổ đời đời. “ Vì thế, tất cả mọi người trong Giáo hội đều được kêu gọi nên Thánh, như lời Thánh Tông đồ dạy: « Vì Thiên Chúa muốn anh em được thánh hóa » (1Th 4,3; x. Eph 1,4); sự thánh thiện này của Giáo hội luôn được biểu lộ và phải được biểu lộ qua những hoa trái ân sủng mà Thánh Thần đã kết sinh nơi các tín hữu; sự thánh thiện ấy được diễn tả dưới nhiều hình thức nơi tất cả những ai đang cố đạt tới Đức Ái trọn hảo trong bậc sống của mình trong khi xây dựng kẻ khác. Đặc biệt hơn, sự thánh thiện đó tỏ lộ trong việc thực hành các lời khuyên, quen gọi là lời khuyên của Phúc Âm. Nhờ Chúa Thánh Thần thúc đẩy, nhiều Kitô hữu thực hành các lời khuyên ấy với tư cách cá nhân hoặc trong những lối sống hay bậc sống đã được Giáo hội công nhận; việc thực hành đó mang lại và phải mang lại cho thế giới một bằng chứng và một mẫu gương rạng ngời về sự thánh thiện của Giáo hội”. ( Lời kêu gọi Mọi Người Nên Thánh, Hiến chế ‘Ánh sáng muôn dân’ (Lumen Gentium) Đoạn V, 39) “ Vì thế, mọi Ki tô Hữu đều được kêu mời và có bổn phận nên thánh theo bậc sống mình” ( Lumen Gentium V , 42)
LẠY CÁC THÁNH NAM NỮ NGỰ TRÊN TRỜI.
XIN PHÙ HỘ GIÚP CON CHÁU CHIẾN ĐẤU VÀ CHIẾN THẮNG.
“ HÃY NHỚ MÌNH LÀ BỤI TRO!”
NHỚ LẠI CUỘC VIẾNG THĂM HẦM MỘ PARIS
TOÀN BÀI :
http://antontruongthang.com/suy-ni%E1%BB%87m/%E2%80%9C-hay-nh%E1%BB%9B-minh-la-b%E1%BB%A5i-tro%E2%80%9D-nh%E1%BB%9B-l%E1%BA%A1i-cu%E1%BB%99c-vi%E1%BA%BFng-tham-h%E1%BA%A7m-m%E1%BB%99-paris/
THÁP EIFFEL VỀ ĐÊM. NGUỒN INTERNET.
Paris giàu, Paris đẹp, Paris thơ mộng, hào nhoáng … Paris , Thủ đô Ánh sáng. Nhưng cũng có một Paris buốn, Paris nghèo, Paris bóng tối… Paris hầm mộ. Tôi nhớ mãi một buổi chiều thu, sau giờ học ở Phân Khoa Thần học Tin Lành gần ngục La Santé, tôi trở lại Metro Denfert- Rochereau để về nhà.. Lá thu xào xạc dưới chân! Bổng nhiên, tôi thấy có một số bạn trẻ đang tụ tập mua vé tham quan một địa điểm nào đó. Tôi qua lại đây nhiều lần mà sao không thấy cảnh nầy. Tò mò, tôi tiến lại gần và thấy người ta đang mua vé tham quan Les Catacombes de Paris, Hầm mộ Paris. Paris cũng có hầm mộ à….
Ai là vua? Ai là quan? Ai là quý tộc? Ai là dân thường? Ai khôn và ai dại? Ai sắc nước hương trời và ai xấu xí dị dạng? Chỉ còn lại đây là cái hộp sọ, là những khúc xương cánh tay, cẳng chân. xương sườn, chật chồng như củi mục, là những đốt xương sống bỏ ngổn ngang? Năm hay sáu triệu bộ xương như thế tại các hành lanh lang hầm mộ nầy. Bất giác tối nhớ đến câu thơ : Ôi nhân sinh là thế ấy. Như bóng đèn như mây nổi như gió thổi , như chiêm bao! Trong xa lộ tử thần nầy, người ta cũng gắn những câu trích của các danh nhân kim cổ, nhắc cho khách tham quan chân lý ngàn đời : con người trước sau rồi cũng chết! đừng ảo tưởng!. Sau đây là một số trích đoạn.
Trước hết là những câu thơ của thi sĩ Lamartine không rõ trích từ bài nào, quá hay, xin tạm dịch :
Cứ như thế , tất cả qua đi trên trái đất.
Tinh thần, sắc đẹp, duyên dáng, tài ba.
Mong manh tựa một cánh hoa.
Mà cơn gió thoảng đủ rơi rụng.
Đời hoa cũng giống ta thôi. Như bụi tro, đồ chơi của gió.
Mỏng giòn thay nhân loại Yếu ớt tựa hư vô! Lamartine.
” Ainsi tout passe sur la terre Esprit, Beauté, Grâce, Talent
Telle est une fleur éphémère
Que renverse le moindre vent.”
“Ils furent ce que nous sommes Poussière, jouet du vent ;
Fragiles comme des hommes. Faible comme le néant!” Lamartine.
…
Ngươi quay phía nào cái chết cũng rình chờ De quelque coté que tu te tournes la mort est aux aguets.
Hãy tin đi rằng mỗi ngày đối với ngươi là ngày cuối cùng
Croyez que chaque jour est pour vous le dernier. Horace. Hãy lo xếp đặt của cải vì ngươi sẽ chết đó. Và rằng ngươi không thể sống mãi Disposes de tes biens parce que tu mourras. Et que tu ne peux toujours vivre. Phúc cho ai luôn đặt giờ chết trước mắt và ai tự bố trí để chết mọi ngàyHeureux celui qui a toujours devant les yeux l’heure de sa mort et qui se dispose tous les jours à mourir. Nay bạn, mai tôi. Có thế thôi.
Và những lời Chúa trong Kinh Thánh và lời các thánh cũng vang vọng:
Quid fuisti? Quid est? Quis eris?
Pulvis es!
Ngươi đã là gì? Đang là gì? Sẽ là gì?
Ngươi là tro bụi!
( Thánh Bênađô Clairveaux)
Ventus est, vita mea ! Job 7,7.
Là cơn gió, đời sống tôi! Sách Gióp 7,7.
Terra, terra, terra, audi sermonem Dei! Jer.22,29
Đất, đất, đất, hãy nghe Lời Chúa! Tiên tri Giêrêmia 22,29.
…. một chân lý bất biến: con người ai không chết? Nhân sinh tự cổ thùy vô tửNếu có dịp đến Paris, xin đừng quên Hầm mộ trên. Một bài học thực tế minh họa cho lời Chúa hôm nay.
Hởi người, hãy nhớ mình là tro bụi, một mai sẽ trở về bụi tro! Sáng Thế 3,13.
Sau khi thăm Đế quốc Tử thần, chúng ta sớm nhận ra thế trần phù vân, ảo ảnh nhưng đồng lúc biết quý sự sống hôm nay và giá trị cuộc đời mai hậu mà Thiên Chúa hứa sẽ tặng ban. Courage! Can đảm lên!
BỆNH VIỆN UNG THƯ ĐÀ NẴNG 2 THÁNG 11 NĂM 2013.
THÁNG 10 NĂM 2013.
VỮNG TIN VÀO NGÀY MAI!
CHÚA SAI CÁC THIÊN THẦN ĐẾN AN ỦI…
Không dự tính bất cứ chuyện gì liên quan đến bệnh viện, nhưng mọi việc diễn tiến thật nhanh ngoài dự đoán. Lm Antôn đã nhập viện được 6 ngày để rồi phải đi qua các công đoạn xét nghiệm, kể cả phẫu thuật. Muốn im lặng cũng không được, chỉ một người biết là nhiều người cũng biết, cả những bạn bè ở xa nữa vòng trái đất. Thời đại cách mạng thông tin có khác.
Những lời hứa cầu nguyện, thăm hỏi, những nụ cười khích lệ, những cái bắt tay ấm áp an ủi bệnh nhân rất nhiều.
Không ai là một hòn đảo. Nhan đề sách của linh mục Thomas Merton ngày nào như vang vọng nhắc nhở sự liên đới của nhân loại trong niềm vui và những nổi khổ. Phút chốc, con người cảm thấy mình nhỏ bé biết bao, cần sự hổ trợ của đồng loại rất nhiều.Vì một bệnh nhân, cả một guồng máy bệnh viện phải vận hành, kể cả những vị không hề thấy mặt.
Chín tầng bệnh viện là một thế giới khổ đau thu nhỏ của con người. Ai muốn thấy mình hạnh phúc, hãy viếng thăm các bệnh viện. Họ sẽ cảm thấy yêu đời hơn và bớt ích kỷ, nhỏ nhen hơn.
Ở đây ngày ba bữa bệnh nhân nghèo được hưởng phần cháo tình thương, sạch sẽ thơm ngon và thỉnh thoảng có những nhóm từ thiện đến tặng quà. Một bánh mì sandwich kèm theo mấy hộp sữa tươi, không nhiều nhưng tấm lòng thật quý. Thực tế huy động được ba, hay bốn trăm phần như thế số tiền đâu phải nhỏ. Trên đất nước nầy còn có bao tấm lòng nhân ái, bao con người còn biết sống vì người khác, tôi vững tin dân tộc Việt còn có tương lai, không nên bi quan.
Và kể khi không còn ai bên cạnh, không ai có thể xẽ chia những khổ đau thân xác hoặc tăm tối tâm hồn, người con Chúa còn sự trợ lực của trời cao, của sức mạnh cầu nguyện.
Hạnh phúc đến từ đức tin cần thiết và vĩ đại biết bao!
BVUTDN ngày 26 tháng 10 năm 2013.
ĐƯỜNG VÀO PHÒNG MỔ.
ALÔ…VỚI BỊCH SERUM.
MIỀN TRUNG…TE TUA!
Điệp khúc “Bão lụt Miền Trung” liên tiếp cất lên.
Lm Antôn sống trong một ngôi nhà kiên cố cách bờ biển Đà Nẵng vài trăm mét. Ngọn gió Đông Bắc đi thẳng vào hướng mình. Nặng nhất từ 1 giờ đêm cho đến 7 giờ sáng. Phòng lầu một có hai lớp cửa kiền kiền và kính nhưng nước tìm cách lọt qua các khe, lênh láng trên sàn nhà. Tiếng gió rít, hú, tiếng các cánh cửa rung bần bật, tiếng mưa rào rào, sóng ầm ầm, cây cối vật vã, tổng hợp lại như âm thanh một đoàn xe lửa đang lao về phía mình, giữa đêm tối, không một tiếng người. Tường có sập không? Các khung cửa có bung ra không? Mình núp vào góc nào đây? Không cách gì ngủ được. Con người mình nhỏ bé quá. Lúc đó có cảm giác chẳng ai có thể giúp gì ai, giờ phút nầy chỉ còn dựa vào đức tin, phó thác cho Chúa định liệu.
Tưởng tượng những gia đình sống trong nhưng ngôi nhà ọp ẹp, con cái, người già ướt sũng rét run cầm cập, rồi nước tràn xuống, dâng lên, giữa màn đêm mịt mùng mới thấy dân Miền Trung cực khổ đến mức nào. Bao công lao của một năm hay một đời phút chốc tan thành mây khói, chôn theo dòng nước cuộn trôi.
Than trời, trách đất mà đất trời vẫn im lặng.
Mệt mỏi, chán chường nhưng không thể buông tay. Phải tiếp tục sống!
…..
….
Và rồi bão cũng ngớt, lại xắn tay áo lên, bắt đầu lại…!
Qua chiến tranh và bão lụt, mới thấy hết sức chịu đựng của người Miền Trung!
CÂY DA NẦY CÁCH PHÒNG 12 MÉT.
TÃ TƠI…NHƯNG VẪN BÁM TRỤ.
BIỂN NỔI GIẬN.
BÃO ĐỜI..BÃO LÒNG.
BÀI PHỎNG VẤN CỦA ĐÀI RADIO ĐỨC MẸ HẰNG CỨU GIÚP.
THỨ BẢY 5/5/2012.
Tháng 5 Năm 2012
CHÚA NHẬT |
THỨ HAI |
THỨ BA |
THỨ TƯ |
THỨ NĂM |
THỨ SÁU |
THỨ BẢY |
Địa chi . http://radioducme.com/index.php?option=com_content&view=category&layout=blog&id=44&Itemid=63&limitstart=9Vào ngày 5 tháng 5, download để nghe, sau bài tin tức và suy niệm.
Tin tức khí tượng cho biết, trận bão Nari, bão 11, đang đến và nhắm thẳng Đà Nẵng. Từ sáng nay 14 tháng 10 năm 2013, mưa và gió bắt đầu tung hoành dù theo dự đoán, tâm bão sẽ “thăm viếng” vào sáng mai 15 tháng 10.
Từ tầng 2, Trung tâm Mục vụ Giáo phận Đà Nẵng nhìn ra con đường ven biển, Trường Sa, thấy cây cối vật vã, và xa hơn những con sóng cao, dài tung bọt trắng xóa. Bãi biển không một bóng người.
Cù lao Chàm hằng ngày hiện ra trước mắt gợi nhớ bao kỷ niệm buổi ban đầu Tin Mừng đến đắt Việt thân yêu , giờ đây biến mất giữa mây mù như không hề tồn tại.
Lm Antôn thui thủi một mình và dù trong ngôi nhà còn một vài nhân vật khác, cảm thấy như ở trong lâu đài hoang vắng vì không nghe một giọng nói, một tiếng động ngoại trừ tiếng gió hú. Buồn hơn cả Thúy Kiều ở Lầu Ngưng Bích…vì dù sao cô còn có “thấp thoáng cánh buồm xa xa”.
Cũng may, diện chưa bị cắt và còn có thể liên lạc với thế giới bên ngoài qua mạng Internet.
Chỉ hơn một năm nữa, ngày kỷ niệm 18 tháng 1 năm 1615 lại hiện về mà bao nhiêu công sức đổ ra cho ngày đó thật huy hoàng, thật ấn tượng như trôi sông trôi biển. Hội đồng Giám mục Việt Nam vừa họp xong, nhưng không thấy ai nói gì!
….
Nhớ lại tháng 5 năm 2012.
Thứ bảy ngày 5 tháng 5 năm 2012, vào lúc 11 giờ đêm, giờ Hội An, tiếng chuông điện thoại reo, một cuộc gọi từ Long Beach, của Radio Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, yêu cầu trã lời một số câu hỏi liên quan đến chương trình xây dựng Nhà truyền thống Hội An mà trước đó một người thân đã liên hệ với Tạp chí Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
Mười mấy tháng đã trôi qua mà bài phỏng vấn hôm ấy vẫn còn được lưu giữ, dù chẳng ai thèm đọc lại .
Bé B. đã theo yêu cầu của lm Antôn ghi lại bài nói chuyện hôm ấy. Xin gửi đến độc giả thân mến nghe và xem lại để biết thêm thông tin về Giáo sử giai đoạn khời đầu.
Phần cuối của cuộc phỏng vấn không thành hiện thực vì lm Antôn sau khi tiêu tốn cả trăm triệu cho đồ án và các công việc liên hệ… đã “dẹp tiệm”, chuyển khỏi Hội An,về nghỉ hưu với một chức vụ “hoành tráng”: trưởng ban Lịch sử và Văn hóa mà thực ra….!
Tranh thủ lúc còn lên mạng được, xin mời quý “fan độc giả antontruongthang.com thương thưởng thức”.
BÀI PHÒNG VẤN
Kính thưa quí thính giả trong tiết mục tìm hiểu di sản về lịch sử và văn hóa giáo hội Việt Nam. Ngày hôm nay, chúng tôi kính mời quí thính giả theo dõi cuộc phỏng vấn của Rađiô Mẹ Hằng Cứu Giúp với Linh Mục Antôn Nguyễn Trường Thăng. Ngài hiện là Cha chánh xứ Giáo Xứ Hội An. Trong phòng Rađiô Mẹ Hằng Cứu Giúp đang có sự hiện diện của Linh Mục Phaolô Nguyễn Tất Hải – giám đốc của Rađiô Mẹ Hằng Cứu Giúp và Tivi Ánh Sáng Tin Mừng. Trên đường line điện thoại đang có tiếng nói của Linh Mục Antôn Nguyễn Trường Thăng.
Phát thanh viên:Chúng con xin kính chào các Cha ạ!
Cha Phaolô Nguyễn Tất Hải:Vâng, chào chị Mai Quỳnh, chào quí thính giả của Rađiô Mẹ Hằng Cứu Giúp. Ngày hôm nay chúng ta hân hạnh được tiếp xúc với Cha Antôn Nguyễn Trường Thăng trên đường dây điện thoại. Cha Antôn Nguyễn Trường Thăng – ngài thuộc Giáo Phận Đà Nẵng, năm nay đã 70 tuổi rồi, và ngài đã được 40 năm Linh Mục. Ngài đã từng học Giáo Hoàng Học viện ở khóa 6 tại Đà Lạt từ năm 1963 đến năm 1972, ngài cùng lớp với Đức Cha Vũ Huy Chương là Giám Mục Đà Lạt hiện nay. Trong thời gian làm việc với vai trò của một vị Mục Tử, Linh Mục Antôn Nguyễn Trường Thăng đã qua các vai trò, cũng như các giáo xứ khác nhau như là Giáo Xứ Tam Tòa, Trà Kiệu, Nhà Thờ Chính Tòa Đà Nẵng. Hiện nay, ngài là Chánh Xứ của Hội An cũng được hơn 5 năm nay rồi. Ngài cũng đã từng đi học về Giáo Sử tại Học Viện Công Giáo ở bên Pháp – Paris. Và chúng con rất hân hạnh được tiếp xúc với Cha. Riêng đối với cá nhân tôi thì Cha đã từng hiện diện trong Thánh Lễ Truyền Chức vào mùa hè 1997 tại California. – Chúng con xin chào Cha. Và giờ đây cô Mai Quỳnh có một vài câu hỏi xin gởi đến Cha và xin Cha giúp giải đáp để cho quí thính giả được biếtCha Antôn Nguyễn Trường Thăng: Xin chào Cha Hải và chị Mai Quỳnh, cũng như Rađiô Mẹ Hằng Cứu Giúp.
Phát Thanh Viên Mai Quỳnh:Kính chào cha! Dạ thưa Cha, Cha đang ở Hội An, vậy thì xin cha có thể vui lòng cho Rađiô Mẹ Hằng Cứu Giúp của chúng con, cũng như thính giả biết sơ qua về thành phố Hội An hiện nay. Cha có thể nói về dân số, công giáo nói riêng hoặc là du lịch Phố Cổ thưa Cha?
Cha Antôn Nguyễn Trường Thăng: Tôi rất là sung sướng và hạnh phúc bởi vì Hội An là Di Sản Văn Hóa Thế Giới từ tháng 12 năm 1999 và thành phố Hội An hiện nay vẫn là một nơi mà các du khách rất thích đến. Dân số hiện nay khoảng 100.000, mật độ dân số theo như thống kê là đông nhất Việt Nam vì gấp 6 lần các nơi. Là một thành phố nhỏ nhưng được gọi là thành phố Du Lịch và Di Sản Quốc Tế vì nơi đây có rất nhiều di tích. Người ta đã kiểm chứng là có đến 1360 di tích, trong đó nhà cổ có đến trên 1000, 19 chùa, 43 miếu, 23 đình, 38 nhà thờ – nhà tộc, 5 hội quán, 11 giếng cổ, 44 mộ và một cây cầu rất nổi tiếng là Chùa Cầu và những di tích khác. Là người Công Giáo thì chúng ta cũng rất hãnh diện bởi vì gần như Công Giáo có mặt cùng lúc với thành phố này. Nếu Chúa Tiên Nguyễn Hoàng lập Dinh trấn Thanh Chiêm năm 1602 và mở ra cửa thành phố Hội An để ngoại thương thì năm 1615 Giáo Hội chúng ta đã có mặt tại đây và có lẽ là trước đó nữa. Cho nên, trải qua nhiều biến động lịch sử thì Hội An tuy rằng được gọi là cái nôi của Giáo Hội Việt Nam cách chính thức là một giáo xứ tiên khởi. Hiện nay có khoảng 1000 giáo dân ở trong khu vực phố cổ và chung quanh có khoảng 500- 600 nữa, là một giáo xứ rất là nhỏ nhưng mà lại lớn.
Cha Phaolô Nguyễn Tất Hải:Cha có thể nói thêm một tí về Giáo Hội Lịch Sử Việt Nam có liên quan đến địa danh Hội An được không ạ?
Cha Antôn Nguyễn Trường Thăng: Cái đó là cái chính tôi muốn nói ấy chứ! Cái kia là chỉ mới nói chung chung thôi. Như chúng ta biết rằng khi người Bồ bắt đầu lưu thông trên biển đông trên các thuyền buồm thì năm 1518 và những năm kế tiếp là họ đã có mặt trên thành phố này, (ít nhất là có mặt tại Cù Lao Chàm ở ngoài khơi) bởi vì nơi đó là nơi mà tất cả các tàu bè đi từ Malacca đến Nhật Bản hay MaCau đều phải dừng chân để lấy nước, lấy thực phẩm và chất đốt. Và ngoài ra, ở Hội An hồi xưa có nhiều trầm hương hay là Kỳ Nam và những loại hương liệu rất quí như: trà, quế , yên sào v..v.. cho nên họ rất thích đến. Theo lịch sử, năm 1523 đã có nhiều người Bồ Đào Nha dựng thánh giá tại ngoài cửa Chàm. Mới đây, tôi tìm thấy một văn bản là mùa hè năm 1555, thánh lễ đầu tiên được cử hành tại Việt Nam là tại vịnh Tân Hiệp, Cù Lao Chàm. Đó là khi thế kỉ XVI, có một số các nhà truyền giáo các dòng như dòng Augustinô đã đến nhưng cũng không có kết quả bao nhiêu. Cũng có một vài người trở lại đạo.
Phải nói rằng Giáo Hội Việt Nam là nhờ Giáo Hội Nhật Bản. Như chúng ta biết rằng, đầu thế kỉ XVII, Giáo Hội Nhật Bản bị bách hại một cách rất khủng khiếp. Các giáo sĩ thì bị trục xuất, còn các giáo dân Nhật Bản thì họ đã tìm cách đi buôn bán, và họ đã đến Hội An trong thời điểm đó rất là thích hợp, vào thời điểm Mùa Phục Sinh – như Cha Đắc Lộ đã từng viết: Sau mùa gió, mùa bão tố thì có rất nhiều thuyền đi từ Nhật Bản đến Hội An cùng với Mùa Chay, Mùa Phục Sinh. Sau đó, có một số giáo dân Nhật Bản quyết định ở lại tại Hội An vì Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho phép người Nhật Bản, cũng như người Bồ và người Trung Quốc được buôn bán và sống theo phong tục của họ. Chính nhờ điều đó mà có nhiều người Nhật Bản đã quyết định ở lại Hội An. Và dĩ nhiên họ cũng cưới vợ người bản địa. Các cô gái Việt Nam thì không có đạo. Điều đó đã làm họ băn khoăn nhiều. Họ muốn làm sao để vợ và con cái họ cũng được rửa tội. Và chính vì vậy, họ đã yêu cầu các Cha Dòng Tên tại Ma Cau – đặc trách của Giáo Hội Nhật Bản lúc bấy giờ về tị nạn ở đó – đến giúp đỡ họ. Được phép của Chúa Nguyễn Phúc Nguyên, nhóm đầu tiên gồm có Cha Francesco Busomi là người Napolitano tức là người Ý hiện nay cùng với Cha Diego Carvalho người Bồ Đào Nha và 3 thầy trợ sĩ. Đó là thầy Dias.và thầy Paul và thầy Joseph Saito đã đến Cửa Hàn vào ngày 18 tháng giêng năm 1615, sau đó họ trực tiếp vào Hội An ở. Trong một thời gian, như chúng ta đã biết rằng, các Ngài ở đó gặp thuận lợi và cũng gặp khó khăn, Macau tiếp tục gởi thêm 2 vị nữa, đó là Cristofori Borri, Francesco Pina vào năm 1617. Hai vị này là những vị mà sau này chúng ta thấy họ đóng vai trò rất quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Vì có sự chống đối của nhiều nhóm cho nên các Ngài phải đi vào Nước Mặn, Qui Nhơn năm 1618. Sau đó, các Ngài trở lại Hội An, và Cha Borri đã viết một kí sự rất quan trọng, đó là Ký Sự Đàng Trong. Ngài ở đây từ năm 1617 đến năm 1622, năm 1633 Ngài đã xuất bản ở trong đó và đã trở thành một Best Seller – là một cuốn sách chạy đã dịch ra nhiều thứ tiếng, chúng ta có thể tìm thấy để đọc và biết về Đàng Trong thế kỉ XVII. Người thứ 2, đó là Cha Francisco Pina – đây là vị linh mục đầu tiên đã đi hẵn với người Việt Nam. Người đã lên Thanh Chiêm, Quảng Nam. Nơi đó Ngài đã học tiếng Việt. Theo một số thông tin cho biết thì Ngài là người khai sinh ra Chữ Quốc Ngữ tại Thanh Chiêm (Dinh trấn Quảng Nam) vào năm 1622-1623. Nhưng rất tiếc Ngài đã qua đời khi còn rất trẻ, ngài bị chết đuối vào ngày 23 tháng 12 năm 1625. Cha Đắc Lộ cùng với Cha Majorica là một trong những học trò của Ngài về Tiếng Việt. Chính Cha Đắc Lộ đã nói rất rõ rằng “Tôi học Tiếng Việt với Cha Pina – là người đầu tiên viết và giảng bẳng Tiếng Việt”. Cho nên bây giờ ở Việt Nam người ta đã xác nhận rằng, mặc dù Cha Alexandre de Rhodes đã có công lớn xuất bản cuốn từ điển Việt – Bồ – La và cuốn Phép Giảng Tám Ngày, nhưng mà công xây dựng nên Chữ Quốc Ngữ là của Cha Francisco Pina. Ngài có thể đã được chôn cất tại Hội An, và hiện nay chúng tôi có một vài ngôi mộ, hi vọng rằng một trong những ngôi mộ đó là của Cha Pina.
Như vậy, chúng ta thấy rằng vào giai đoạn Dòng Tên – là những người đã mang Khoa Học và nhiều điều mới lạ đến. Và ngược lại, họ cũng tìm cách hội nhập văn hóa Việt Nam, chính xác hơn là “thích nghi” với tất cả mọi đặc tính. Sau đó, chúng ta cũng biết rằng có một sự chống đối rất quan trọng đã đưa đến cái chết của thầy Anrê vào ngày 26 tháng 7 năm 1644. Sau giai đoạn đó thì Dòng Tên cũng hơi yếu đi, để rồi năm 1659 hai giáo phân mới Đàng Trong và Đàng Ngoài được thiết lập. Giám mục đầu tiên của giáo hội Đàng Trong là Cha Pierre Lambert de la Motte. Và bắt đầu với sự tham gia của các Cha thừa sai Paris – tức là Missionnaire Etrangere de Paris , trong các công cuộc truyền giáo tại đây. Kế tiếp thời Đức Cha Francois Perez , các Cha dòng Phan Sinh tại Phi Lập Tân cũng đã đến làm việc tại khu vực này cùng với các Cha Dòng Propaganda. Vào thời kì đó, tuy công việc truyền giáo được nhiều thuận lợi nhưng cũng có nhiều sự chống đối và nhiều sự bách hại. Cho nên, đến thế kỉ XVIII năm 1750 thì hầu như các Cha bị trục xuất khỏi Việt Nam dưới thời Võ Vương. Kế tiếp là cuộc biến động dưới thời Tây Sơn xảy ra, vì vậy thành phố Hội An và khu vực quanh đây rất là điêu đứng. 3 đạo quân đánh nhau, trước hết là Tây Sơn với Chúa Nguyễn, rồi Chúa Trịnh cũng tấn công vào, và mảnh đất Hội An trở thành điêu tàn vào thế kỉ XVIII do biến động chính trị thời Tây Sơn. Sau thời vua Gia Long, chúng ta cũng đã biết đã có một thời kì yên ổn. Nhưng tiếp tục vẫn là những cuộc bách hại cho nên Hội An, giáo xứ Hội An gần như mất tích gần 2 thế kỉ, phải đợi đến đầu thế kỉ XX thì các giáo sĩ người Pháp đã tụ họp lại giáo dân. Theo thống kê năm 1939 chỉ có 45 giáo dân mà thôi. Từ đó đến nay thì lúc lên lúc xuống do những biến động lịch sử, nhưng mà chúng ta vẫn còn tồn tại đây và cũng chính từ cái nôi Hội An này mà Tin Mừng đã đến khắp Việt Nam. Cho nên tôi nghĩ không một Địa Phận nào lại không muốn nói đến Hội An, kể cả Miền Bắc. Bởi vì chính Cha Đắc Lộ, sau khi học Tiếng Việt ở đây, năm 1627 thì Ngài được gởi đến Đàng Ngoài. Ngài cũng xây dựng Giáo Hội Đàng Ngoài. Tuy Hội An nhỏ, nhưng có một lịch sử rất dài, có nói cả ngày cũng không hết.
Cha Phaolô Nguyễn Tất Hải: Vâng! Cám ơn Cha! Đúng là Cha học về Giáo Sử bên Paris về, do đó nên Cha có rất nhiều tài liệu. Và cũng xin cám ơn Cha đã cho thính giả Rađiô Mẹ Hằng Cứu Giúp được biết thêm về Hội An. Vì bây giờ, khi người ta nghĩ đến Hội An, người ta chỉ nghĩ đây là một phố cổ thôi, những lối kiến trúc ngày xưa vào thế kỉ XVI- XVII, nhưng kèm theo đó là một quá trình lịch sử dài của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, cũng như việc hình thành Chữ Quốc Ngữ với các vị thừa sai Bồ Đào Nha đến Việt Nam.
: Lúc nãy Cha có nhắc đến vấn đề là có một số di tích và những ngôi mộ của các Giáo Sĩ thừa sai ngày xưa. Như vậy, hiện nay (đứng về phía người Công Giáo thôi) thì các di tích hay ngôi mộ cổ nào của các nhà thừa sai nào còn sót lại cho đến ngày nay ạ?
Cha Antôn Nguyễn Trường Thăng: Mình đã biết rằng có rất nhiều vị trên vùng đất này đã không bao giờ quay trở về cố hương nữa. Vị đầu tiên, rõ ràng nhất đó là Cha Francisco Pina – người Bồ, là cha đẻ của Chữ Quốc Ngữ hiện nay. Tháng 12 năm 1625, Ngài đã được chôn cất tại Hội An, nhưng rồi cũng không biết được. Sau đó năm 1726 thì có Cha Gioan Baptista Sanna. Đảo Sardaigne (Ý) , ngài đã đến Hội An và Huế để làm thầy thuốc – làm ngự y cho Chúa. Ngài mất vào tháng 2 năm 1726. Mộ của Ngài đã được bác sĩ Albert Sallet đã viết trong cuốn B.A.V.H tức Bulletin des Amis du Vieux Huế, năm 1919 đã nói về mộ này rất rõ. Đó là một cái bia, trong đó có chữ La Tinh và chữ Hán. Thật tiếc là cái bia không còn nữa, nhưng cái bản dập đăng trên báo vẫn còn. Như đã biết, bên cạnh mộ Ngài Dòng Tên thì có một ngôi mộ của một linh mục Giáo Sĩ khác, tôi rất hi vọng đó là mộ của Cha Pina. Sau 75, do nhiều sự khó khăn phải di dời, hiện nay ba mộ đó được di dời về nhà thờ Hội An. Cùng với các mộ của các thừa sai về sau, chẳng hạn như Cha Pierre Gallioz Thiết mất năm 1953. Ngôi mộ này cũng đã được nhà nước xác nhận là một ngôi mộ của một giáo sĩ Tây Phương – là di tích lịch sử cấp tỉnh. Ngoài ra, trên vùng đất này có Đức Cha Guillaume Mahot chết nhưng không biết chôn tại đâu. Rồi có Đức Cha Francois Perez và nhiều vị khác. Đó là việc mà chúng ta phải cần truy tìm. Và trong lòng đất này, cũng còn rất nhiều chứng tích của các vị khác.
Phát Thanh Viên:Dạ cám ơn Cha về những kiến thức rất là phong phú về lịch sử cũng như văn hóa về vùng Hội An. Để kỉ niệm 50 năm thành lập Giáo Phận Đà Nẵng năm 2013 và 400 năm lịch sử Giáo Hội Việt Nam 2015 thì việc xây dựng Nhà Truyền Thống này có ý nghĩa gì về mặt lịch sử và văn hóa? Và có những trưng bày hình ảnh chứng tích gì trong ngôi nhà này thưa Cha?
Cha Antôn Nguyễn Trường Thăng: Đó là một điều mà tôi rất đau khổ. Trong khi các tôn giáo khác ở đây, đặc biệt là Phật Giáo có nhiều Di Tích cấp quốc gia như Chùa Crúc Thánh, Chùa Vạn Đức, Chùa Phước Lâm.. Và nói chung các tôn giáo có nhiều cơ sở rất là tốt. Năm 2008 thì nhà nước cũng công nhận là Nhà Thờ và các ngôi mộ giáo sĩ là di tích cấp tỉnh. Du khách đến thì cũng không có gì để xem, giáo dân không có gì để coi. Bởi vì cơ sở chúng ta cũng khá khó khăn, cũ kĩ. Cho nên tôi thấy cần có một cái nhà để cho giáo dân tham quan. Bởi vì hiện nay giáo dân thế giới đến đây rất nhiều. Tôi đã tiếp nhiều đoàn trong các địa phương, gần đây như: Lào, Campuchia, Thái Lan, Singapore, Hồng Kông là những đoàn thường tới. Còn những đoàn xa, kể cả những vùng không có liên hệ gì như Ba Lan họ cũng đến đây, cả Pháp và một số nước khác nữa. Phải nói rằng xứ Hội An là di sản lịch sử, cũng là di sản văn hóa, nó liên hệ với nhiều quốc gia, trong đó các giáo sĩ người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha rồi Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, Pháp rồi người Đức, người Thụy Sĩ v…v…. Tôi nghĩ là họ cũng sẽ tìm được những di sản của Cha ông họ – những người đã đem Tin Mừng đến Việt Nam. Và Tin Mừng cũng từ đây mà đi đến các nơi khác. Để khiến cho Việt Nam hiện nay có trên 7, gần 8 triệu giáo dân trong và ngoài nước với 26 địa phận. Và tôi nghĩ rằng, nếu coi thường một nơi khai sinh của mình thì không được biết ơn lắm với lịch sử. Chính vì thế mà tôi nghĩ rằng, cần có một nơi – ít nhất là gợi ra một nơi gặp gỡ để cho các giáo dân họ có thể hiểu được lịch sử của giáo hội lúc khai sinh. Và muốn như vậy thì ở trong phòng, phải có một số nơi trưng bày những hiện vật. Hiện tại thì tôi cũng có kha khá hiện vật về lịch sử, tôi cũng đã có một số sưu tầm. Ngoài ra thì cũng có một số Dòng có mặt ở đây như Dòng Tên, Dòng Phan Sinh, Dòng Thừa Sai Paris, Dòng Auguttino và các dòng về sau nữa. Vậy thì ngôi nhà này rất là quan trọng, chẳng những là đối với giáo phận Đà Nẵng trong dịp kỉ niệm 50 năm thành lập mà còn đối với giáo hội Việt Nam trong 400 năm nữa. Nhưng nếu như để chậm quá thì nó sẽ mất đi sự thời gian tính. Trong năm nay và sang năm thì sẽ xây cho xong để chúng ta mừng 400 năm. Bây giờ thì có thể mời Đức Giáo Hoàng đến phong Thánh (cho thầy giảng Anrê) được rồi. (cười). Phát Thanh Viên:Thưa Cha, nếu Cha có nhiều di tích như thế thì bây giờ, công việc xây dựng Nhà Truyền Thống thì căn nhà đó phải to như thế nào? Bao nhiêu tầng? Bao nhiêu phòng? Chi phí như thế nào? Vậy thì Cha có thể cho khán thính giả của chúng con được biết không ạ? Và chúng con có thể giúp ích cho Cha như thế nào?
Cha Antôn Nguyễn Trường Thăng: Đây là một vấn đề quan trọng. Bởi vì chúng tôi ở trong khu phố cổ, nó bị hạn chế nhiều trong các luật lệ của khu phố cổ ở Hội An này. Nhà không được cao quá 11m. Mặt khác, đất đai của Giáo Hội hiện nay cũng không còn nhiều. Cho nên, ngôi nhà chúng tôi dự tính khoảng 24-25m, bề ngang khoảng 8-9m, cao 11m. Ngôi nhà bao gồm 2 tầng; tầng dưới sẽ có khoảng 6 phòng ngủ 4×4 để các Cha hay các anh em ở đâu xa về ở qua đêm cũng có một phòng ngủ để ở lại, một phòng khách và một hệ thống vệ sinh, ở tầng dưới như vậy là hết diện tích đất rồi. Còn ở tầng trên thì để dành hẳn làm phòng Hội Trường và cũng vừa là một nơi trưng bày. Có 2 phần chính như vậy thôi. Theo như thiết kế, phí xây dựng hiện nay tốn khoảng 3,5 tỷ đồng Việt Nam, tính ra khoảng trên dưới 200,000 đô la… Nhưng đó chỉ mới về khâu xây dựng, còn về khâu trưng bày nữa. Tôi thấy những vấn đề xây dựng về tôn giáo như: nhà thờ hay về bác ái xã hội thì có nhiều người ủng hộ, nhưng về văn hóa thì khó xin đóng góp quá! Hi vọng rằng Rađiô Mẹ Hằng Cứu Giúp cũng thương tình cố gắng để giúp đỡ. Vì giáo dân chỉ có 1000 người, giáo dân Giáo Phận Đà Nẵng cũng rất khó khăn về đời sống, và Giáo Phận Đà Nẵng cũng rất khó…
Phát Thanh Viên:Thưa Cha, giá trị ở một phòng bên Mỹ là đã hơn 200,000 đô la rồi. Và hơn nữa, công việc xây dựng nhà truyền thống này rất có ý nghĩa về mặt Lịch Sử và Văn Hóa.. Kính thưa quí thính giả, chúng ta đang nói chuyện với Cha Antôn Nguyễn Trường Thăng, ngài là một pho Lịch Sử rất sống động, nếu các thính giả muốn biết thêm về Ngài hay muốn đóng góp một bàn tay vào việc xây dựng Nhà Truyền Thống này thì hãy lên Google và tìm kiếm trang web: antontruongthang.com thì quí thính giả sẽ thấy có rất nhiều bài về Văn Hóa, Lịch Sử, nhất là các Thánh Tử Đạo, nếu quí vị muốn học vẽ thì Cha cũng có nói về Hội Hoa, những công việc “trên trời dưới đất”, tất cả mọi sự mà quí thính giả muốn biết thì đều có trên blog của Ngài.Dạ thưa Cha, nếu như bây giờ muốn đóng góp trực tiếp với Cha thì Cha có thể cho quí thính giả một địa chỉ, điện thoại hoặc email thưa Cha?
Cha Antôn Nguyễn Trường Thăng: Trên blog của tôi có chuyên mục Ngân Hàng Vietcombank, về tiền Việt, tiền Euro và tiền Usd. Hoặc có thể gởi thẳng về Nguyễn Trường Thăng, số 2 đường Nguyễn Trường Tộ, thành phố Hội An, Quảng Nam. Và không chỉ tiền, nếu như các vị có các tư liệu quí về lịch sử Giáo Hội thì làm một bản photocopy gởi về để trưng bày cũng rất hay.
Phát Thanh Viên: Dạ vâng, bây giờ thì chúng con biết rồi. Quí thính giả của chúng con có thể lên blog của cha qua địa chỉ : antontruongthang.com ạ?
Cha Antôn Nguyễn Trường Thăng: Vâng, ở chuyên mục Nhà Truyền Thống. Và tôi sẽ liên lạc với các vị, số điện thoại di động liên lạc của tôi là 0914.044.075. Hoặc gởi về địa chỉ: Nguyễn Trường Thăng, số 2 đường Nguyễn Trường Tộ, Hội An, Quảng Nam.
Phát Thanh Viên: Kính thưa quí vị, quí vị có thể liên lạc với Cha ở cellphone 0914.044.075 hoặc quí thính giả có thể gởi mail cho Cha ở địa chỉ: antonthang@gmail.com
Cha Phaolô Nguyễn Tất Hải: Tôi cũng xin trình bày với thính giả Rađiô Mẹ Hằng Cứu Giúp rằng, Cha Antôn Nguyễn Trường Thăng cũng từng là linh mục chánh xứ của Giáo Xứ Trà Kiệu, đó là Trung Tâm Thánh Mẫu ở Giáo Phận Đà Nẵng – nơi Đức Mẹ đã hiện ra để bảo vệ che chở cho những giáo dân trong thời kì bách hại. Và cũng nhân dịp này, Cha có thể cho chúng tôi biết về Đức Mẹ Trà Kiệu được không ạ?
Cha Antôn Nguyễn Trường Thăng: Tôi đã được hân hạnh làm cha chánh xứ Trà Kiệu trong một giai đoạn giao thời rất khó khăn, từ năm 1975 đến 1990, tức là 14 năm tôi ở đó. Phải nói rằng, đây cũng là một vùng đất “rất Lịch Sử”, nơi đây gọi là Simhapura – thành phố sư tử hay Sư Tử Thành – là kinh đô của người Chăm Pa. Cho nên ở nơi đó có các tác phẩm rất đẹp về Chăm Pa, và style (phong cách) Trà Kiệu rất nổi tiếng.
Vào thế kỉ XIX, nhờ ơn Đức Mẹ phù trợ mà nơi đây đã thoát khỏi mối nguy hiểm bị tận diệt. Chính vì vậy mà tại đồi Bửu Châu ở Trà Kiệu đã xây một ngôi đền dâng kính Đức Mẹ. Trà Kiệu có một bề dày lịch sử, và đây cũng là Trung Tâm Thánh Mẫu của Giáo Phận Đà Nẵng. Các vị cũng có thể đến nơi đây để thăm di tích Lịch sử cũng như Thánh Địa Trà Kiệu này. Nhờ vậy, chúng ta thấy được tình yêu của Thiên Chúa và Đức Mẹ che chở con cái trong những lúc khó khăn. Nơi đây chúng ta cũng thấy được nhiều cái đẹp về Văn Hóa Chăm Pa.. Khi ở đó, tôi cũng sưu tập một bộ “đời sống thường ngày” của người Chăm Pa. Tôi vẫn còn để tại đó. Nếu nhà nước có những đền tháp, có những tác phẩm điêu khắc, nhưng về đời sống thường ngày của người Chăm, ví dụ: viên gạch, cái chén, cái bát v…v… thì chúng ta cũng có thể tìm thấy tại Trà Kiệu này rất nhiều.
Phát Thanh Viên: Chúng con xin cám ơn Cha! Kính thưa quí thính giả, vì thời gian có hạn nên chúng tôi tạm ngưng tiết mục tìm hiểu về truyền thống Di Sản Lịch Sử Việt Nam tồn tại nơi đây. Nếu quí thính giả muốn đóng góp một bàn tay để xây dựng Nhà Truyền Thống này, xin quí thính giả gởi về địa chỉ: số 2 Nguyễn Trường Tộ, Hội An, Quảng Nam hoặc ở blog: antontruongthang.com. Căn nhà này chỉ tốn khoảng 200,000, tuy trong nền kinh tế khó khăn, nhưng số tiền này cũng xứng đáng để xây dựng một căn nhà rất có giá trị như vậy…Cha có điều gì muốn nhắn gởi với Rađiô Mẹ Hằng Cứu Giúp không ạ?
Cha Antôn Nguyễn Trường Thăng: Tôi là linh mục Antôn Nguyễn Trường Thăng, tôi xin cám ơn các anh chị trong Rađiô Mẹ Hằng Cứu Giúp và tất cả các thính giả.
Cha Phaolô Nguyễn Tất Hải: Vâng xin cám ơn Cha và hẹn cha một dịp khác.
LỜI CÁM ƠN : XIN CHÂN THÀNH CÁM ƠN RADIO ĐỨC MẸ HẰNG CỨU GIÚP, LINH MỤC PHAOLÔ NGUYỄN TẤT HẢI, CHI MAI QUỲNH, CÁC CỔ ĐỘNG VIÊN ĐÃ QUAN TẤM ĐẾN KẾ HOẠCH TRÊN, DÙ “NỮA ĐƯỜNG ĐỨT GÁNH”. XIN CÁM ƠN BA VỊ ĐÃ GỬI 1200 USD CHO CHƯƠNG TRÌNH NẦY…HY SINH CỦA QUÝ VỊ THẤT QUÝ…NHƯNG LM ANTÔN VÀ GIÁO XỨ HỘI AN ĐÃ CHI 100 TRIỆU CHO ĐỒ ÁN VÀ CÁC CÔNG TÁC KHÁC MÀ “KHÔNG CÓ ĐỀN BÙ”. XIN CHÚA TRẢ CÔNG CHO CÁC VỊ. NHƯNG CHÚNG TA KHÔNG BỎ CUỘC, DÒNG TÊN KHU VỰC Á CHÂU ĐANG TÍCH CỰC CHUẨN BỊ.. KHÔNG LẼ CHỈ CÓ DÒNG NẦY THÔI SAO. GIÁO HỘI VIỆT NAM CHẲNG LIÊN HỆ GÌ …?!
TP ĐÀ NẴNG NGÀY 14 THÁNG 10 NĂM 2013. ĐỢI BÃO NARI, BÃO 11.
TẬP CUỐI TRUYỆN “CÚP CÔ ĐƠN”.
CÚP CÔ ĐƠN…MỘT THÁNG TUỔI SỐNG NHỜ VINAMILK.
Khi về lại nhà, thông tin muốn biết trước hết là “cúp cô đơn”, câu chuyện chú heo con mà độc giả antontruongthang.com từ trong và ngoải nước luôn “quan tâm”. – “Cúp Cô đơn” giờ ra sao? – Cho biết tin “Cúp Cô đơn”Sau ba tháng, chính tôi cũng không biết “số phận” của nó thế nào. Nhớ ngày lên đường, tôi muốn “ký gửi” nó cho một gia đình yêu quí động vật, lo chăm sóc “tân tụy” và có đất cho nó chạy nhảy vui đùa. – Cha giao nó cho con. Sau nhà con có một khoảng vườn trống, có mấy con gà và một con mèo làm bạn. Hai vợ chồng và hai con xem ra yêu thích nó và tôi đã giao nó cho họ. Tin tưởng và vì phải đi gấp, cũng không có giờ để đến tận nơi quan sát. – Cha yên trí, Cúp không còn cô đơn. Vài tuần sau tôi nhận được một video clip cho thấy nó vui đùa với một con mèo trong một không gian rộng rãi. Thế là an tâm. Sau ba tháng sau hè, tôi về nhà và mãi đến hôm qua mới liên lạc được với nhà “bảo trợ”, anh đang lo một công trình xây dựng ngoài Hà Nội. – Cha ơi, lúc đó con không có ở nhà, gia đình cho biết một buổi sáng, có người đến báo gia đình “bị tố cáo” đang chăn nuôi gia súc gia cầm, “lệnh cấm của thành phố”, phải giải quyết gấp bằng không “chiều nay 2 giờ chúng tôi sẽ giải quyết”. Vợ con đã gọi điện cho cha, không thấy bắt máy và cũng không biết giải quyết làm sao vì quá gấp. Đúng 2 giờ, một nhóm người đã đến nhà bắt “Cúp Cô đơn’, hai con gà lớn và hai gà con, đem đi đâu không biết. Cả nhà hoảng sợ, hàng xóm láng giềng ngờ vực. Con gái con phải bỏ chạy! Con xin lỗi cha. Thế là xong. Anh và gia đình đâu có lỗi gì với tôi và nó đâu. Chỉ tội cho “Cúp Cô đơn”. Tội cho gia đình anh và hai cháu, một cậu bé luôn chăm sóc nó , vào giờ đó có lẻ bận đi học và cô chị Th.N. một “hot girl” của thành phố, vì yêu động vật mà phải liên lụy. Gia đình anh đầm ấm, phải “tai tiếng” như buôn ma túy, như chứa gián điệp…!
CẬU BÉ NẦY RẤT “YÊU” CÚP…NHƯNG NHÀ KHÔNG CÓ ĐẤT RỘNG.
CẬU “LỚN” NẦY …THỈ KHỎI PHẢI NÓI.
Tôi tưởng tượng “Người nách thước kẻ tay đao” bắt “Cúp Cô đơn” như bắt Thúy Kiều. Tội nghiệp cho bốn con gà, hai lớn hai nhỏ phải bị liên lụy. Con mèo từ nay sẽ không còn bạn. Cậu bé sẽ quay về với trò chơi game thay vì vui đùa với “con vật cưng”. Tôi không dám nghĩ thêm về số phận chúng nó sau đó. Chắc là bị “dạ…táng”! Kiếp sau, nếu có cho cầm thú, đừng “xớ rớ” hộ khẩu thành phố!
Thành phố Đáng sống ngày 12 tháng 10 năm 2013.
ĐỌC LẠI BÀI ĐỂ NHỚ.
CON CÚP!
Hôm nay, trời im mát, về lại Hội An thăm vườn xưa đã xa rời từ mấy tháng qua. Ngôi nhà “rường” xanh cây duối vẫn soi bóng trên ao cá. Cây xoài sai quả. Khoai lang củ bự. Bắp to trái. Gà, thỏ quen thuộc chào mừng. Anh chị vịt xiêm giới thiệu bầy con 14 đứa vừa nở. Hai cô heo rừng gốc Thái vừa nở nhụy khai hoa, một cô 10 con. Cô em 5 con. Ông bố khoe bộ răng nanh khá cong. Các dì , các anh chị to con mập mạp, lên ký, dài đòn.
VỊT BẠCH : THẰNG TRẮNG…KHÔNG PHẢI LÀ CON TUI ĐÂU. ĐỪNG HIỂU LẦM!
CHÚNG MÌNH SINH NGÀY SONG THẬP 10-10- 2012.(HÌNH DƯỚI) NAY ĐÃ THẾ NẦY ĐẤY! ( HÌNH TRÊN LOAI NHỎ)
CHÍN ANH EM TRÁI DƯA ..MÚP RỤP
DÌ BA VÀ 5 CON…HƠI KHÓ TÍNH.
CÚP…CÔ ĐƠN! Chỉ tội con “cúp”. Cũng con dòng cháu giống heo rừng mà “số phận long đong”! Trước hết nó mang tên “CÚP”… không phải “CUB”… vì chào đời vào GIỜ TRÁI ĐẤT 2013, tức 23 tháng 3 năm 2013. Giờ “cúp điện”! Tính ra chưa được 3 tuần tuổi. Tuy là chị “hai” tức sinh ra sau anh cả, trước lũ em, nhưng trong khi anh và các em múp rụp, thì cô nàng lại quá nhỏ con. Một mình yếu ớt không thể địch nổi với 9 tên dành bú to xác. Cô suýt bỏ mạng vì khát sữa. Thương tình mẹ A. nhận làm con nuôi. Ẳm bế, nâng niu và cho bú…Vinamilk. Mẹ đặt tên là “cúp” để nhớ sự kiện Giờ trái đất. Không ngờ Cúp qua khỏi cơn nguy tử và sống mạnh khỏe. Cũng thời gian đó dì chó Bin sinh được 3 em, cũng thương tình ấp yêu và cho bú.
CÚP UỐNG SỮA..VINAMILK.
CÚP NGỦ VỚI CÚN CON.
TRANH THỦ BÚ TÍ.
NHẦM…. RỒI CÚP ƠI.
CHÓ NHÀ…LỢN RỪNG CÒN THƯƠNG NHAU.. LOÀI NGƯỜI SAO MÃI HẬN THÙ?Lm Antôn dự tính sẽ đưa CÚP về Đà Nẵng nuôi dạy..thay chó kiểng! ĐÀ NẴNG NGÀY 12 THÁNG 4 NĂM 2013. NGÀY 10 THÁNG 10 NĂM 2013, VỀ LẠI HỘI AN XEM NHÀ RƯỜNG CÂY DUỐI VÀ CÁC VẬT NUÔI. NẾU “CÚP CÔ ĐƠN” CÒN SỐNG SẼ TO NẶNG NHƯ NHÓM NẦY.
TRÀNG CHUỖI TRĂNG SAO.
THÁNG 10, THÁNG MÂN CÔI 2013.
MỜI QUÝ ĐỘC GIẢ XEM CÁC BÀI VIẾT THÁNG 1O
TRÊN antontruongthang.com
AVE MARIA !
KINH KÍNH MỪNG BẰNG THƠ
CỦA THI SĨ HÀN MẶC TỬ.
“Tràng chuỗi của chàng (HÀN MẠC TỬ) không chỉ dừng lại trên đôi tay. Tình yêu Mẹ của chàng không đọng lại trên lời kinh mà bao la như biển trời bát ngát, như vũ trụ bao la.
Hãy cầu nguyện bằng trăm kinh mây gió.
Hãy dâng cho một tràng chuỗi trăng sao
Qua những vần thơ tuyệt bút Ave Maria của thi sĩ HMT, tôi có cảm tưởng F. X Nguyễn Trọng Trí có thể có một chỗ đứng sánh ngang với thánh Bênađô ( thế kỷ 12 ). Thánh Grignon de Monfort ( thế kỷ 18 ) và thi sĩ Paul Claudel ( thế kỷ 20 ), Boris Pasternak ( Trinh nữ và Biển Đỏ trong Bác sĩ Jivago ) về tình yêu đối với Mẹ Maria.”http://antontruongthang.com/vh-ngh%E1%BB%87-thu%E1%BA%ADt/ave-maria-kinh-kinh-m%E1%BB%ABng-b%E1%BA%B1ng-th%C6%A1-c%E1%BB%A7a-thi-si-han-m%E1%BA%B7c-t%E1%BB%AD/
MICHELANGELO VÀ TRÀNG HẠT MÂN CÔI
TRONG BỨC TRANH PHÁN XÉT CHUNG.
THIÊN ĐÀNG HỎA NGỤC HAI QUÊ.
TRÀNG CHUỔI MÂN CÔI
CỦA ĐỨC CHA GIÀ PHÊRÔ MARIA PHẠM NGỌC CHI
( 1909 – 1988 )
MẸ ƠI! ĐẾN THÁNG MƯỜI…CON MUỐN!
F.X.NGUYỄN XUÂN VĂN.
SÁNG NAY THỨ HAI 7/10/2013, LỄ MẸ MÂN CÔI, VÀO LÚC 6 GIỜ 30 ĐIỆN THOẠI REO “XEM MẶT TRỜI QUAY” NHƯ HÔM Ở NHÀ THỜ NÚI TRÀ KIỆU. NHÌN CŨNG THƯỜNG, CHỤP HÌNH HƠI KHÓ VÌ QUÁ CHÓI SÁNG. LM ANTÔN DÙNG MỘT MIẾNG PLASTIC GIẢM BỚT..VÀ CHỤP ĐƯỢC HÌNH TRÊN. DƯỚI LÀ BIỂN ĐÔNG.
ĐÀ NẴNG NGÀY 7 THÁNG 10 NĂM 2013.
MỘT MỐI TÌNH NHO NHỎ.
CỦA MỘT VỊ THÁNH VĨ ĐẠI
THÁNH NỮ TÊRÊXA HÀI ĐỒNG GIÊSU.
MON DIEU, JE T’AIME.
LẠY CHÚA, CON YÊU NGƯỜI.
‘Giữa lòng Hội Thánh, tôi sẽ là tình yêu’
Trích sách Tự thuật của thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su, trinh nữ
Khi nguyện ngắm, những khát vọng của em làm cho em bị đau khổ giày vò. Em mở các thư của thánh Phao-lô để tìm kiếm một câu trả lời. Tình cờ mắt em bắt gặp chương 12 và 13 thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô… Khi đọc chương trước, em thấy rằng không phải ai cũng có thể làm tông đồ, ngôn sứ hay thầy dậy. Em cũng thấy rằng Hội Thánh gồm nhiều phần tử khác nhau, và mắt không thể vừa là mắt vừa là tay được … Câu trả lời trên thật rõ ràng nhưng không làm em thỏa mãn và đem lại cho em sự bình an.
Không sờn lòng, em tiếp tục đọc và câu sau đây làm em nhẹ nhõm : Anh em hãy tha thiết kiếm tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả. Và thánh Phao-lô tông đồ giải thích rằng mọi ơn hoàn hảo nhất chẳng là gì cả, nếu không có tình yêu …, và đức ái là con đường tuyệt hảo chắc chắn dẫn tới Thiên Chúa. Và cuối cùng, em đã được bình an thư thái.
Khi suy nghĩ về thân thể mầu nhiệm của Hội Thánh, em chẳng thấy mình thuộc loại chi thể nào trong các loại thánh Phao-lô mô tả, hay đúng ra em muốn thấy mình có mặt trong mọi loại chi thể đó. Đức ái đã cho em chìa khóa để tìm ra ơn gọi của em. Em hiểu rằng nếu Hội Thánh có một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Em hiểu rằng Hội Thánh có một Trái Tim và Trái Tim đó bừng cháy tình yêu. Em hiểu rằng chỉ có tình yêu mới làm cho các phần tử của Hội Thánh hoạt động và nếu tình yêu tắt ngúm thì các Tông đồ sẽ chẳng loan báo Tin Mừng nữa, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình ra… Em hiểu rằng tình yêu bao trùm mọi ơn gọi, và tình yêu là tất cả, nó bao trùm mọi nơi và mọi thời… ; tắt một lời, tình yêu tồn tại mãi.
Bấy giờ, vào lúc tình yêu dạt dào ngây ngất, em đã kêu lên : Ôi Giê-su, Tình Yêu của con… ơn gọi của con, cuối cùng con đã tìm thấy, ơn gọi của con, chính là tình yêu …
Vâng, con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh, và chỉ chỗ đứng này, ôi Thiên Chúa của con, chính Chúa đã ban cho con. Trong lòng Hội Thánh, Hiền Mẫu của con, con sẽ là tình yêu. Như thế, con sẽ là tất cả… và như thế, ước mơ của con sẽ được thực hiện…”
XEM BÀI:
http://antontruongthang.com/suy-ni%E1%BB%87m/chuy%E1%BB%87n-tinh-terexa-hai-d%E1%BB%93ng-giesu/
CÒN GÌ QUÍ HƠN SỐNG VÌ TÌNH YÊU VÀ CHẾT CHO TÌNH YÊU.
LISIEUX,NORMANDIE, 1996.
ĐÀ NẴNG NGÀY 01 THÁNG 10 NĂM 2013.
THÁNG 9 NĂM 2013.
NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI, CÁI CHẾT VÀ NGÔI MỘ
LINH MỤC ALEXANDRE DE RHODES (ĐẮC LỘ)
CHÂN DUNG LINH MỤC ALEXANDRE DE RHODES VÙNG AVIGNON,
RẤT KHÁC VỚI CHÂN DUNG “KHÔNG RÂU” TRONG BỨC HỌA VỀ CUỘC TỬ ĐẠO CỦA THẦY ANRÊ PHÚ YÊN
HOẶC CHÂN DUNG ĐỘI MŨ TẠI NHÀ CÁC CHA MEP, RUE DU BAC, PARIS.
BẢN DỊCH :”ALEXANDRE DE RHODES, NGƯỜI AVIGNON, DÒNG TÊN,
VI TÔNG ĐỒ ĐÀNG NGOÀI, ĐÀNG TRONG, chết ngày 5 tháng 11 năm 1660.”
Có những người làm huyên náo lịch sử hiện đại. chiếm lĩnh những trang đầu trên nhật báo; ầm ầm, xôn xao trên mạng Internet, nhưng chôn cất xong là cũng… «câu chuyện đến đây là hết rồi ». Saddam Huissen, Khadafi, Micheal Jackson…vân vân và vân vân.
Nhưng có những người chết đã 2000 năm hay ba bốn trăm năm mà vẫn có « người yêu và kẻ ghét », đích thị họ là những nhân vật phi thường.
Chúa Giêsu Kitô là một nhân vật ngoại lệ chứng minh điều xác quyết trên.
Linh mục Alexandre de Rhodes cũng « sống mãi » với những lời khen chê của « Hội chợ phù hoa » (Vanity Fair)G
Mới đây linh mục Antôn vui mừng vì cuối cùng cũng tìm được một bức ảnh màu ngôi mộ của cha Alexandre de Rhodes, tuy hình ngôi mộ nầy đã được đăng trong tạp chí Missi số đặc biệt thập niên 1960. Thời gian ở Pháp 1994-1997, một linh mục Thừa sai Pháp hứa sẽ cho một photo màu nhưng rồi như « nước chảy qua cầu ». Nước Iran Cọng Hòa Hồi giáo hôm nay quá khắc khe với đạo Công giáo, chắc khó có ai đến đấy được kể cả các cha Dòng Tên phục vụ tại đó nhiều thế kỷ trước.
Trên các trang mạng và email gần đây bài viết của tác giả Thanh Việt đã được « phát tán » nhanh.
Tìm nơi an nghỉ của cha đẻ chữ Quốc ngữ
TÁC GIẢ THANH VIỆT.
http://www.gdtd.vn/channel/2776/201308/tim-noi-an-nghi-cua-cha-de-chu-quoc-ngu-1971800/ Với hy vọng có thể tìm được nơi ông trở về với cát bụi, chúng tôi, đoàn cán bộ Việt Nam đang công tác tại Iran đã đến Isfahan – thành phố cổ cách Teheran 350 km về phía Nam. Đó là một ngày đầu năm 2011, một tuần sau lễ Giáng sinh. Con đường cao tốc nối Teheran với Isfahan phẳng đẹp như một dải lụa mềm vắt qua những núi đồi, cao nguyên hoang vắng đầy sỏi đá. Đường tốt, nên chỉ hơn 4 giờ, chúng tôi đến Isfahan. Nằm trên tuyến đường giao thương chính Bắc – Nam, Đông – Tây, Isfahan từng là kinh đô của nước Ba Tư xưa. Thành phố này nổi tiếng với những kiến trúc Hồi giáo, có nhiều đại lộ, nhà thờ tuyệt đẹp. Điều này khiến thành phố được người Iran đưa vào câu thành ngữ: “Isfahan là một nửa của thế giới”. Quảng trường Naghsh-i Jahan của Isfahan là một trong những quảng trường lớn nhất địa cầu với kiến trúc tiêu biểu Hồi giáo đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa nhân loại. Tại thành phố này, Alexandre de Rhodes đã sống những năm cuối đời. Mặc dù trước đó, phần đời chính của ông là ở Việt Nam. Chúng tôi đến Isfahan vào một ngày mùa đông se lạnh nhưng tràn ánh nắng. Hỏi đường đến một nhà thờ Công giáo nào đó, chúng tôi được người dân chỉ dẫn tận tình. Điểm chúng tôi đến là nhà thờ Vank, nhà thờ thiên chúa lớn nhất Isfahan. Qua giây phút ngạc nhiên trước đoàn khách Việt Nam, cha xứ nhà thờ nồng nhiệt đón tiếp chúng tôi hồ hởi. Trước nay, hiếm có du khách Á đông nào, nhất là từ Việt Nam xa xôi tới nơi đây. Ông nhiệt tình dẫn chúng tôi đi tham quan và nói về lịch sử nhà thờ. Nằm trong thế giới Hồi giáo, nhà thờ có kiến trúc bề ngoài đặc trưng Hồi giáo, nhưng vào bên trong, với các tranh và tượng Thánh đầy ắp khắp các bức tường, cứ ngỡ như đang ở một nhà thờ nào đó ở Roma hay Paris. Cha xứ càng ngạc nhiên hơn khi chúng tôi hỏi về giáo sĩ Alexandre de Rhodes – người đã mất cách đây hơn 350 năm. Nhà thờ Vank có một thư viện lớn, lưu trữ nhiều tư liệu quý giá. Cha xứ nói người vào thư viện tìm kiếm. Lát sau, một thanh niên to khỏe khệ nệ mang ra một cuốn sổ dày cộp, to chừng nửa cái bàn, bìa bọc da nâu ghi chép về các giáo sĩ đã làm việc và mất tại đây. Ngạc nhiên và vui mừng tột độ, cha và chúng tôi tìm thấy dòng chữ ghi Alexandre de Rhodes mất năm 1660. Nơi cha Đắc Lộ nghỉ chân Như vậy, không nghi ngờ gì nữa, chính tại nhà thờ Vank này, cha Đắc Lộ đã sống và làm việc những năm cuối đời. Chúng tôi hỏi: “Thưa cha, liệu có thể tìm thấy mộ của Alexandre de Rhodes ở đâu không?”. Cha xứ tận tình chỉ đường cho đoàn khách đặc biệt tới Nghĩa trang Công giáo ở ngoại ô thành phố. Nghĩa trang nằm dưới chân đồi. Các ngôi mộ nằm êm mát dưới tán rừng thông, tùng, bách mênh mông, vắng lặng. Lạ một điều, nghĩa trang Công giáo nhưng không thấy một cây thánh giá nào.
Phân vân tự hỏi làm sao tìm được mộ cha Đắc Lộ trong khu nghĩa trang rộng lớn này? Thật may, chúng tôi gặp được người quản trang nhiệt tình. Ông chỉ đường cho chúng tôi đến khu mộ cổ. Chia nhau đi các ngả tìm kiếm, lần mò hồi lâu, chúng tôi reo lên khi thấy ngôi mộ có ghi rõ tên Alexandre de Rhodes. Mộ ông nằm bên cạnh hai ngôi mộ khác thành một cụm ba ngôi. Gọi là mộ, nhưng không đắp nổi như ở Việt Nam. Đó chỉ là tảng đá lớn nằm nghiêng nửa chìm, nửa nổi trên mặt đất. Dù đã trải qua mưa nắng, biến động cuộc đời hơn ba thế kỷ, chữ khắc trên tảng đá còn khá rõ nét. Trong ánh nắng ban trưa, chúng tôi kính cẩn nghiêng mình trước ngôi mộ, ai cũng thấy dâng lên trong lòng mình những cảm xúc bâng khuâng khó tả.
Rời Isfahan, trở về với công việc thường nhật, chúng tôi cảm thấy có đôi chút may mắn là một trong những người Việt đầu tiên tìm thấy mộ phần của cha Đắc Lộ. Thế giới nhiều khi hữu hạn, còn văn hoá và ngôn ngữ dường như vô hạn. Xin cảm ơn Cha, người đã sáng tạo ra chữ Quốc ngữ để cả dân tộc Việt sử dụng cho tới ngày hôm nay Thanh Việt. Trong phần giới thiệu bài viết có những dòng chữ « Alexandre de Rhodes – người có công lớn trong việc tạo ra chữ Quốc ngữ có tên tiếng Việt là cha Đắc Lộ. Nếu dùng những từ khóa này tìm kiếm trên Google, ta được hàng vạn trang viết về ông. Nhưng nếu hỏi: “Mộ của ông ở đâu?” thì không có thông tin nào. Chỉ biết rằng, ông mất ngày 5/11/1660 ở thành phố Isfahan – Nước Cộng hòa Hồi giáo Iran ngày nay. Hành trình đi tìm mộ cha Đắc Lộ được khởi đầu từ những thông tin ít ỏi như thế. “Không có thông tin nào?”
Thật ra đã có nhiều thông tin nhưng chưa đến tay các vị đó thôi. Trước khi qua đời cách đây hai năm, linh mục Ts Đỗ Quang Chính đã công phu tóm tắt lại cuộc đời của linh mục Alexandre de Rhodes và bỏ thời giờ phiên dịch lá thư của linh mục Aimé Chézaud SJ sống trong Cơ sở Dòng Tên tại Thủ đô Ispahan vào thời điểm ấy (năm 1788 dời đến Teheran cho đến ngày nay).
Cả một núi thông tin về những ngày cuối đời và việc an táng vị tông đồ Đàng Trong và Đàng Ngoài thế kỷ 17.
NHÀ THỪA SAI ALEXANDRE DE RHODES TỪ TRẦN L.M Đỗ Quang Chính
LM ĐỖ QUANG CHÍNH, SANA 1966.
Từ nửa thế kỷ nay, rất nhiều sách báo viết về Alexandre de Rhodes: khen có, chỉ trích cũng có. Họ tìm hiểu, giải thích từ nguồn gốc gia tộc ông đến những hoạt động truyền giáo, những cách “hội nhập văn hóa” và công trình chữ quốc ngữ của ông. Tuy nhiên, hình như chưa ai công bố trên sách báo về những giờ phút cuối cùng cuộc đời ông dựa theo các tư liệu lịch sử. May mắn cho chúng tôi, vì cách đây 30 năm, chúng tôi đã vô cùng sung sướng nhận được một tư liệu viết tay này 11.11.1660 do Amé Chezaud tường thuật về cái chết của ông. Amé Chézaud, như bạn đọc sẽ thấy dưới đây, người sống cùng một nhà, cùng ăn một mâm, cùng hoạt động truyền giáo với Alexandre de Rhodes tại Ispahan, thủ đô Ba Tư thời đó; hơn nữa, Chézaud còn ở bên cạnh Rhodes trong suốt cơn bệnh cuối cùng, vào chính giờ phút Rhodes tắt thở và tổ chức lễ tang cho ông. Tư liệu này Chézaud viết đúng 6 ngày sau khi Rhodes nhắm mắt lìa đời, nên có thể tin vào những gì ông thuật lại là có thật. Bạn đọc sẽ thấy sau đây cách diễn tả của Chézaud, người bạn của kẻ qua đời, có thể đặt vào bản tường thuật những tình cảm và lối suy diễn của riêng ông. Dù sao đi nữa, thiết tưởng đây cũng là một tư liệu đáng trân trọng đối với những người quan tâm nghiên cứu về Alexandre de Rhodes. Riêng chúng tôi, sau khi được đọc tư liệu này, chúng tôi có được cái nhìn rộng rãi hơn về nhà truyền giáo số 1 ở Việt Nam thế kỷ 17, về người đã đóng góp rất nhiều cho công trình sáng tạo chữ quốc ngữ, hơn nữa là người cho xuất bản 3 sách chữ quốc ngữ đầu tiên. Bởi những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn giới thiệu cùng bạn đọc. I. Alexandre de Rhodes! Ông là ai? Tuy bạn đọc đều biết Alexandre de Rhodes là ai, có liên hệ gì với Giáo hội và xã hội Việt Nam, nhưng thiết tưởng cũng nên nhắc lại cuộc đời của ông trên vài trang giấy, sau đó mới bàn đến những ngày cuối đời của ông trên dương thế. Cũng xin bạn đọc lưu ý: Trong tập này chúng tôi xin viết đúng tên Alexandre de Rhodes, hoặc viết ngắn gọn hơn là Rhodes, nhưng không dùng tên Đắc Lộ là tên người ta mới “đặt” cho ông từ 29-5-1941. 1. Thanh thiếu niên một nơi, thành nhân một chốn Gốc gác Do Thái hay Pháp, Tây Ban Nha? Trước đây, người ta cho rằng Rhodes thuộc dòng dõi Do Thái, từ lâu đời có mặt tại Tây Ban Nha, xứ Aragon, miền Calatayud. Bốn năm gần đây, một linh mục Xuân Bích người Pháp, Michel Barnouin (tên Việt là Sơn) công bố một tài liệu về dòng họ Alexandre de Rhodes, nhận định rằng, không có dấu chỉ Rhodes thuộc dòng dõi Do Thái như người ta tưởng (de Rhodes ne laisse percevoir aucun véritable indice de judaité)[1]. Hãy cứ tạm nhận cho Rhodes có nguồn gốc Do Thái, vì vậy Cụ Tổ của ông ở Tây Ban Nha bị trục xuất cùng với 300.000 người Do Thái trong đợt 31-3-1492 vì chính quyền nước này kỳ thị người Do Thái [2]. Bỏ Calatayud đi đâu? Cụ tổ của Alexandre, Jean Chimenes de Rhodes (ghi trong bản di chúc năm 1497 bằng tên này), tức Jean de Rhodes, phải khăn gói chạy về Avignon, nơi gặp gỡ, hội tụ cho nhiều dân tộc, ngôn ngữ; đó là thành phố đã được Tòa thánh Roma mua lại trước đó 144 năm. Từ đấy Avignon là đất của Tòa thánh; chỉ đến năm 1791, Avignon mới trở thành đất của Pháp hoàn toàn. Sinh 15-3-1593, thuộc giáo xứ thánh Madalena tại Avignon (từ năm 1960, Torralba chứng minh năm sinh 1591 của A.De.Rhodes là sai), A.de Rhodes cũng như những người trong gia đình sống tại Avignon, là công dân dưới quyền Đức thánh cha, mang quốc tịch Tòa thánh, mặc dù ông nói tiếng Provencale và tiếng Pháp. Thân sinh của Alexandre là Bernardin II de Rhodes, một quan chức giàu có, mang tước vị Ecuyer d’Avigon, kết hôn với Francoise de Raphaelis ngày 10-9-1590, anh của ông là Jean (1591-1621), tiến sĩ luật học; em trai là Georges (1597-1661) tu trong Dòng Tên, nhiều năm làm giáo sư thần học; ngoài ra còn 5 em ruột nữa: Gabrielle, Laure, Suzanne, Francois, và em út là Hélène sinh năm 1607 [3]. Bảy tuổi, Alexandre cắp sách đến trường Trung Tiểu học Avignon dưới quyền điều khiển của các linh mục Dòng Tên (Collège d’Avignon), theo học trường này từ năm 1600-1612. Theo chương trình học (Ratio Studiorum) của Dòng Tên được chính thức thi hành từ 8-1-1599, gồm 3 cấp: Tiểu học: tức cấp 1 (Petit Collège) tính từ dưới đi lên gồm các lớp 5, 4, 3, 2, 1, tuổi từ 7-13: Các lớp tiểu học 5, 4, 3 học ngữ pháp La văn, Hi Lạp, tập nói và viết cho đúng; về La văn theo Cicero, còn Hi Lạp theo tác giả Ovide, Catulle, Tibulle, Properce, Virgile. Lớp 2 (Humanités), tuổi 10 và 11, nhằm trau dồi văn chương, thi văn La ngữ, Hi Lạp; về La văn theo các tác giả César, Tite-Live, Quinte-Curce, Horace, còn về Hi Lạp theo Esope, thánh Chrysotome, các thư của Platon, Synésios, và Iliade của Aristophane. Lớp 1 (Rhétorique), tuổi 12 và 13, nhằm trau chuốt văn chương Hi-La trong khi nói cũng như viết, đồng thời học Sử Địa, Luân lý tổng quát; về La văn theo Cicero (Partitiones, Do oratore v.v…); về Hi Lạp theo Quintilien, Tite-Live, Hésiode, Homère, Pindare-Démosthène. Bậc Tiểu học có khi thêm lớp 6, cũng vào lứa 7 tuổi. Trung học: tức là cấp 2 (Moyen Collège, Cycle des Arts), tuổi từ 14-16; bắt đầu học Triết trong hai môn Siêu hình học và Luận lý học theo Aristote và Platon; về khoa học gồm Vật lý, Vạn vật học, Thiên văn, Toán học theo các tác phẩm của Aristote, Euclide, Sacro Bosco, Oronce Finé, các lý thuyết về các hành tinh của Peurbach, lượng giác học của Regiomontanus (cũng gọi là Johann Muller). Trong bậc này, các tu sĩ Dòng Tên (nếu khấn lần đầu độ tuổi này) học 3 năm, học sinh giáo dân 2 năm. Việc lên lớp Tiểu và Trung học không theo năm học, nhưng theo khả năng. Cao đẳng, hay cấp 3 (Grand Collège), đây là cấp Đại học, phải học đủ 4 năm chuyên về Thần học. Thường là do một Ban giám đốc riêng biệt điều khiển, trường cũng được đặt xa hai trường Trung Tiểu học; còn Trung Tiểu học thường có một Ban giám đốc chung [4]. Vậy, Rhodes học ở Collège d’Avignon được hiểu là Trung Tiểu học, từ năm 1600-1612, tức 12 năm, lúc đó Rhodes được 19 tuổi. Nhờ học với các cha Dòng Tên, nên ơn gọi tu Dòng Tên của Rhodes được định hình dễ dàng hơn. Nhưng Rhodes lại không xin gia nhập Dòng Tên tại Lyon, nơi có Nhà Tập, ngay phía Bắc Avignon; trái lại cậu thanh niên lại cất công đến Roma để xin vào Nhà Tập tại đây. Ngôi Nhà Tập mang thánh hiệu Anrê này, đã cung cấp cho Dòng Tên bao nhiêu nhân vật lỗi lạc về nhiều mặt. Tại sao phải sang tận Roma? – Chẳng phải vì ham cái Roma cổ kính, nhưng chỉ vì khi gia nhập Tỉnh Dòng Tên Roma, sẽ dễ dàng được vua Bồ Đào Nha chấp thuận cho ông đi truyền giáo ở xứ Mặt trời hơn, là xứ cũng thuộc quyền vua Bồ Đào Nha theo chế độ bảo trợ (padoado Portugues). Chính thức vào Nhà Tập ngày 14-4-1612, tuổi 19; hai năm sau, theo Hiến pháp Dòng Tên, Rhodes được khấn lần đầu ngày 15-4-1614. Tuy mới chỉ là “con nít” xét về thời gian tu trì, ấy vậy mà đã “cả gan” trong chính ngày khấn lần đầu, viết đờn chỉ gồm 20 dòng chữ bằng Ý văn, xin cha Bề trên Cả Claudius Aquaviva cho đi truyền giáo nơi xa xôi. Chưa được như ý xin; thế là thầy Rhodes của chúng ta bắt đầu năm thứ nhất Thần học tại Collège Romain, chứ chẳng phải ở Áo Môn hay ở Goa (nếu được chấp thuận cho đi truyền giáo ở Đông Á hay Nam Á). Thử “thời vận” một lần nữa xem thế nào: ngày 15-5-1617, cuối năm Thần học thứ ba, Rhodes viết một đơn khác bằng La văn chứ không bằng Ý văn như đơn viết năm 1614, nhưng vắn hơn hai dòng chữ, đệ lên cha Bề trên Cả Mutio Vitelleschi. Lần này, Rhodes ghi rõ: nhất là từ hai năm nay, con cảm thấy được lôi cuốn bởi lòng ao ước lớn lao vì phần rỗi người Nhật, Trung Hoa hay bất cứ người lương dân nào. Vẫn bặt vô âm tín! Cha Bề trên Cả chẳng nói chẳng rằng. Đánh bạo một phen nữa: vào mùa thu 1617, tức là khoảng tháng 10, đầu năm Thần học thứ bốn của Rhodes, thầy phóng tay viết một hơi 67 dòng chữ bằng La văn trên hai trang giấy khổ lớn như khổ giấy A4 ngày nay. Lời lẽ rất tha thiết, ý tưởng vững chắc, thật mạnh mẽ hùng hồn! Mấy dòng cuối lá đơn, thầy càng như muốn “lên giọng” thuyết phục cha Bề trên Cả hơn, khi đem ra những lý do có tính cách tôn giáo, học vấn, sức khoẻ và xã hội chính trị: con chẳng nghĩ tưởng rằng sinh quán của con có thể gây trở ngại hơn cho việc con đến vùng Ấn Độ, vì con là người Avignon, nên con là công dân của Đức thánh cha, con cũng có sức khoẻ, và con đang bắt đầu vào tuổi 25, con đang theo Thần học năm thứ bốn [5]. Chờ đợi. Cứ đợi chờ và cầu nguyện ! Rhodes vừa thụ phong linh mục xong, thì, đùng một cái, chính trong ngày lễ Phục sinh năm 1618, cha Bề trên Cả Vitelleschi gọi vị tân linh mục nhà ta sang Trụ sở của ngài, nói cho biết ngài chấp thuận cho đi Nhật Bản truyền bá Tin Mừng như ý nguyện. Vui quá là vui! Từ đây, Rhodes dành ra 6 tháng liền chăm chú học Toán học và Thiên văn như khi miệt mài theo khoa Thần học, hầu để thu phục nhân tâm làm cho người ta nhận biết Thiên Chúa. 2. Đông – Tây xa cách mọi mặt Các nhà truyền giáo thời ấy muốn đi từ Châu Âu qua Đông Á, trừ Philippin, thường phải theo ngả Lisbõa, để từ đó tàu vua Bồ sẽ chở đi. Cuối tháng 1-1619 Rhodes tới thủ đô Lisbõa, sau khi rời bỏ Roma từ cuối năm 1618, ghé qua Avignon thăm gia đình. Ngày 4-4-1619 nhà truyền giáo lên tàu từ thủ đô Bồ Đào Nha, tới hải cảng Goa 9-10-1619. Vì xứ Anh đào đang cấm đạo nghiêm ngặt, bề trên Dòng Tên ở Goa tạm giữ ông lại hơn 2 năm trời, mãi đến 22-4-1622 Rhodes mới lên tàu từ Goa, tới Malacca 28-7-1622, nhưng rồi phải đến ngày 29-5-1623 Rhodes mới có mặt tại Áo Môn, chờ đi Nhật Bản. Tại đây, cũng như ở Goa từ 1619-1622, dù Rhodes chưa chính thức hoạt động truyền giáo, nhưng đã tỏ ra là nhà thừa sai năng động, nhiệt tình, dám nói dám làm, đặc biệt trong phương diện hội nhập văn hóa [6]. 3. Còn hơn cả những gì mong đợi Cuộc cấm đạo ở Nhật do Tướng quân Phong Thần Tú Cát khởi đầu từ 1587, rồi đến Tướng quân Đức Xuyên Tú Trung năm 1614, làm cho Giáo hội non trẻ ở đây tàn lụi dần. Giữa lúc ấy thì ở Đàng Trong xem ra việc truyền bá Tin Mừng khá thành công; do đó Bề trên Dòng Tên ở Áo Môn gửi Rhodes đến xứ chúa Nguyễn Phước Nguyên thời ấy. Thế là cuối năm 1624 (hoặc đầu năm 1625) Rhodes có mặt tại Thành Chiêm (Thanh Chiêm, Kẻ Chăm) cách Hội An về phía Tây chừng 4km, để học tiếng Việt với linh mục Francisco de Pina, một tu sĩ Dòng Tên đầu tiên thời điểm ấy thông thạo tiếng Việt nhất. Xem ra từ cuối năm 1624 đến tháng 6-1626, Rhodes được Bề trên cho ở Đàng Trong với mục đích chính là học tiếng Việt và làm quen dần với con người và xã hội Việt, để rồi tung ông ra Đàng Ngoài. Vì vậy, theo các tài liệu của Rhodes, thì hơn một năm ở xứ Trầm hương Yến sào, Rhodes chỉ có một lần theo Francisco de Pina ra Huế, khi Pina làm bí tích rửa tội cho bà Minh Đức Vương thái phi vào năm 1625. Cũng chẳng thấy Rhodes nói đến các công việc khác. Để chuẩn bị cho sứ vụ ở Đàng Ngoài, Rhodes phải về Áo Môn đã, không thể trực tiếp từ xứ chúa Nguyễn vào xứ của chúa Trịnh được, vì hai nhà cầm quyền đang thù nghịch nhau dữ dội. Tháng 6-1626, Rhodes cùng với linh mục Pedro Marques bỏ Đàng Trong về Áo Môn chờ gió mùa sang năm sẽ vào đất chúa Trịnh. Vâng, ngày 12-3-1627, Rhodes và Marques lên tàu từ Áo Môn, chỉ một tuần sau, ngày 19-3-1627, tàu tới bờ biển cửa Bạng tại Thanh Hóa. Lắm sáng kiến, lại nói tiếng Việt ngon lành, Rhodes đã chinh phục lòng người ở vùng cửa Bạng khá dễ dàng. Chẳng thế mà chỉ trong 2 tuần ở đây, ông đã làm cho 32 người tin vào Đức Kitô. Tại An Vực và Vân No, tức tỉnh lỵ Thanh Hóa ngày nay, dù chỉ ở tạm chừng 2 tháng, cũng có đến 200 người được rửa tội. Ngày 2-7-1627, hai nhà thừa sai được tận mắt nhìn thấy Thăng Long, kinh thành ngàn năm văn vật. Lúc đầu các ông được chúa Trịnh Tráng rất quý mến, ra lệnh dựng nhà cho hai ông ở (có lẽ sát với đền Bà Kiệu cạnh hồ Hoàn Kiếm). Nhờ đó, uy tín hai ông càng lớn. Chẳng những giới bình dân mà cả giới trí thức, quan lại và một số vị Sư ở Cầu Giấy cũng đến với Rhodes, người được gọi là Tiến sĩ Tây phương. Nhưng chỉ mấy tháng sau, người ta tung tin hai ông Tiến sĩ Tây phương là gián điệp của chúa Nguyễn tung ra Đàng Ngoài, là kẻ làm bùa phép (khi làm các Bí tích), là kẻ phá hoại đất nước, thuần phong mỹ tục của xã hội, vì rao truyền đạo giáo mới lạ, kỳ cục, lại chỉ cho phép người ta được lấy có mỗi một vợ! Thế là những chuỗi ngày “xui xẻo” ập đến: 28-5-1628 hai cha bị quản thúc tại chính ngôi nhà do chúa Trịnh cung cấp; 10 tháng sau, 3-1629, hai vị bị chúa Trịnh ra lệnh đưa xuống Bố Chính. Nhưng hai cha cứ từ từ lần mò lên tới Vinh, rồi cơ hội đến, hai cha theo tàu Bồ Đào Nha lại lên Thăng Long. Rốt cuộc, tháng 5-1630, hai cha bị chúa Trịnh trục xuất hoàn toàn khỏi xứ. Tuy ở Đàng Ngoài hơn 3 năm, nhưng tính ra chỉ hơn một năm đầu là được tự do. Vậy mà tổng cộng số người được rửa tội lên đến 5.602, chưa kể Rhodes đã lập được tu hội Thầy giảng, mà ba vị đầu tiên tuyên khấn đều là ba nhà Sư: Phanxicô Đức, Anrê Tri, Inhaxiô Nhuận. Về Áo Môn, Rhodes “bị chỉ định” làm Giáo sư Thần học tại Học viện Madre de Deus, điều mà ông không cảm thấy thích thú, chỉ làm vì đức vâng phục. Trong 10 năm trời, 1630-1640, Rhodes ở Áo Môn làm “cái nghề” tay trái ấy, nhưng vẫn hoàn toàn đặt mình trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Đúng là ông giống như chiếc gậy trong tay ông già. 4. Đùa với tử thần Năm 1639 tất cả 6 Giêsu hữu bị chính quyền đuổi khỏi Đàng Trong. Với tình hình này, Bề trên phải tìm một người trước đây đã quen thuộc với xã hội Đàng Trong để can đảm và mau lẹ ứng xử với mọi tình huống về mặt tôn giáo. Ai đây? Phải chọn Rhodes thôi, lúc này cha vừa đúng 47 tuổi. Từ năm 1640-1645, Rhodes ở Đàng Trong, đôi khi có vài anh em đến trợ lực n hư cha Alberto và Mattos ở được vài tháng. Trong thực tế, Rhodes như “kẻ một mình một chợ” trong suốt thời gian trên, tha hồ mà sáng kiến, tha hồ mà chống chọi, tâm hồn thì rất an hòa thư thái, nhưng thân xác thì rong ruổi khắp Đàng Trong, khi trên bộ lúc dưới thuyền, sống chết lúc nào không hay. Hai lần bị bắt, một lần bị chính chúa Nguyễn Phước Lan lên án tử hình, nhưng rồi nhờ có vị Thái sư can gián, nên đổi ra án trục xuất khỏi xứ sở, nếu còn đến Đàng Trong lần nữa sẽ bị tiền trảm hậu tấu. Tổng cộng trong giai đoạn này, 4 lần đi về giữa Áo Môn-Đàng Trong thật là cực khổ; mỗi lần tạm rút lui khỏi Đàng Trong cũng có nghĩa như bị chính quyền hoàn toàn trục xuất khỏi đây. Thời gian những lần đi về: Tháng 2-1640 đến tháng 8-1640; Tháng 12-1640 đến tháng 7-1641; Tháng 1-1642 đến tháng 7-1643; Tháng 1-1644 đến tháng 7-1645. 5. Bao la mà vẫn chật chội Rhodes phải rời bỏ Đàng Trong ngày 3-7-1645 (nơi khác Rhodes lại ghi là ngày 9-7-1645) [7], mang theo di tích thánh là sọ của thầy giảng Anrê Phú Yên tử đạo tại Gò Xử ở Thành Chiêm ngày 26-7-1644 chính Rhodes chứng nhận tận mắt. Từ đó trở đi không bao giờ Rhodes đến nứơc Đại Việt này nữa. Theo lời yêu cầu của Bề trên Dòng Tên ở Áo Môn, ngày 20-12-1645 Rhodes đáp tàu về Roma, để trình bày với Bề trên Cả Dòng Tên về tình hình Tỉnh Dòng Nhật Bản, với Tòa thánh về thực trạng Giáo hội Việt Nam. Đường về Roma đối với Rhodes còn nguy hiểm gian nan hơn cả những chuyến vượt biển trước đây, bởi vừa lâu dài, vừa bị người Hà Lan bắt giam, gần 3 tháng ở Jakarta vì dám dâng Thánh lễ ở đây là nơi do người Hà Lan theo đạo Tin Lành cai quản. Ngày 27-6-1649 mới “vác xác” về tới “Kinh thành muôn thuở” sau một cuộc hành trình 3 năm 6 tháng! Bận việc quá! Tại Roma, nhà truyền giáo số 1 ở Việt Nam vừa phải lo xuất bản 5 cuốn sách để nói cho Giáo hội Châu Âu biết về Giáo hội Việt, về thành quả chữ quốc ngữ, lại phải vận động chạy ngược chạy xuôi, đến cả xứ Piémont, Thuỵ Sĩ để tìm mấy ứng viên giám mục cho xứ Con Rồng Cháu Tiên theo ý Tòa thánh. In sách thì được rồi, nhưng chẳng ai muốn đi làm giám mục ở nơi xa xôi hẻo lánh quá là khác lạ với Châu Âu. Được sự chấp thuận của Thánh bộ Truyền giáo, Rhodes trở sang Pháp, đi tìm ứng viên giám mục. Cuối năm 1652, Rhodes bỏ Roma về Lyon, lên Paris thực hiện cho được mục đích. May quá, trong nhóm Bạn hiền (Bons Amis), ba linh mục trẻ có đủ khả năng, sẵn sàng đi làm giám mục ở đất Việt. Nhưng, khốn thay, chính Đức thánh cha Innocens XI lúc đó lại không muốn cho người Pháp giữ trọng trách này, còn vua Bồ Đào Nha thì cực lực phản đối, lại còn dọa, nếu Tòa thánh cử người Pháp vào sứ vụ này, đế quốc rộng lớn Bồ Đào Nha sẽ không vâng phục Tòa thánh nữa. Sợ! Đức thánh cha liền yêu cầu cha Bề trên Cả Dòng Tên Goswinus Nickel chuyển Rhodes đi khỏi Pháp. 6. Mênh mông nước Ba Tư Phải vâng lời Đức thánh cha ngay lập tức, không trì hoãn một giây. Cha Bề trên Cả thì đương nhiên rồi; còn Rhodes cũng thế, vì ông đã khấn trọng 4 lời Khấn trước năm 1635. Đức vâng phục của linh mục Dòng Tên này thật tuyệt vời, cha Amé Chézaud đã viết như thế trong bức thư đưa tin cha Rhodes qua đời. Cũng về đức vâng phục, Chézaud viết trong bức thư trên: “Tôi không muốn nói đến đức vâng phục và khiêm tốn của cha, vì nếu có nói, tôi chỉ nói được cách mập mờ. Tuy nhiên, nếu ai muốn biết cảm nghĩ của tôi và của anh em chúng tôi về điều đó thì chúng tôi đều đồng tâm nhất trí về điều này để nói rằng, cha thật tuyệt vời […]. Ai đã biết cha nhờ sống với cha thì chẳng hồ nghi về điều này […]. Tôi chắc chắn rằng những ai trong anh em chúng tôi đã được cha cùng sống và cùng làm việc lâu dài, có thể còn nói nhiều chi tiết đặc biệt hơn về điều sau đây trong bản tường thuật này; điều đó lại chính là điểm cuối cùng cuộc đời cha, tỏ ra đâu là mấu chốt của mọi thứ dệt nên đời cha. Chưa bao giờ người ta thấy một tu sĩ giống như cây gậy của ông già, chưa thấy cha trong tất cả cơn bệnh; cha nhẫn nhục, nhạy cảm hơn cả cây gậy, vì cha sẵn sàng ở tư thế như người ta muốn, đến mức như cha còn có ý chí hơn cả cây gậy”. Đưa cha Rhodes đi làm việc ở đâu bây giờ? Chẳng rõ cha G.Nickel có phải nát óc vì vụ này không. Chỉ biết, Bề trên Cả không trả Rhodes trở lại cho Tỉnh Dòng Tên Nhật Bản, lại cũng chẳng phái đi một nơi nào dễ dàng cho ông hơn, nhưng “tống ngay đi” một vùng chẳng thuận tiện: Ba Tư! Ôi, cái vương quốc huyền bí một ngàn một đêm lẻ!!! Toàn là Hồi giáo (hiện nay nước Iran – trứơc đây gọi là Ba Tư – rộng 1.650.000 km2, dân số 56 triệu, nhưng chỉ có 13.000 người Công giáo, ngoài ra 93% theo Hồi giáo phái Si-it). Đi Ba Tư, nhưng ở tại đâu? Thưa ở tại Ispahan (Asfahan), thủ đô của Ba Tư thời ấy, phía Nam Téhéran ngày nay (từ năm 1788, Ba Tư dời thủ đô từ Ispahan lên Téhéran). Ngày 16-11-1654, Rhodes lên tàu từ cảng Marseille để tới Malte; lại lên tàu từ đảo Malte để đi Syria; ngày 11-12-1654 tới Seyde thuộc Syria; mừng lễ Chúa giáng sinh tại Thánh địa Palestine; mãi đến 1-11-1655, Rhodes mới đặt chân lên Ispahan. Thật ra, đối với con người xứ Avignon này, thì Ispahan cũng chẳng lạ lẫm gì, bởi vì trong chuyến đi từ Áo Môn về Roma, Rhodes đã ngừng tại Ispahan 2 tháng rưỡi kể từ ngày 13-4-1648 đến 28-6. Tại Ispahan có một cộng đoàn Dòng Tên, gồm Rhodes là bề trên và cha Chézaud cùng tu huynh Berthe. Vương quốc Ba Tư rộng lớn mênh mông, nhưng đối với Rhodes cũng như các thừa sai khác (Augustinô, Capuxinô…) vẫn chật chội, bởi lẽ dân chúng toàn là Hồi giáo, giảng đạo ai chịu nghe, làm sao cho người Hồi giáo chân nhận Đức Giêsu Kitô chẳng những là ngôn sứ của Thiên Chúa mà còn là Thiên Chúa thật. Gì gì đi nữa nhà thừa sai của chúng ta cũng phải học tiếng Ba Tư đã. Sáu mươi hai tuổi rồi, dù Rhodes có tài về ngôn ngữ cũng chẳng phải như khi học tiếng Bồ, tiếng Việt. Về vấn đề học ngôn ngữ Ba Tư, trong thư Rhodes gửi cho người em ruột là linh mục Dòng Tên Georges, ngày 20-5-1658: từ khi anh đến ở xứ này, Chúa đã ban ơn cho anh học được tiếng Ba Tư: anh biết tạm đủ để giảng thuyết. Đọc bức thư của Amé Chézaud, chúng ta thấy cuộc truyền giảng Tin Mừng của Rhodes ở Ba Tư chẳng thu lượm được mấy kết quả: “Tính dịu dàng của cha [Rhodes] đã làm cha luôn ứng xử như con chiên giữa bày sói, chịu đựng vui vẻ những lời lăng nhục, khinh bỉ và cả gạch đá, mà bây giờ tại đây người ta quen tiếp đón chúng tôi như thế, đáp lại phần thưởng đó là những lời như Sữa tốt lành ngọt ngào cùng lời chúc lành”. “Để tỏ lòng nhiệt thành, cha đi khắp các làng chung quanh tìm kiếm trẻ em bệnh hoạn, hy vọng rửa các em bằng nước thanh tẩy khi các em gần sinh thì. Cha không sốt ruột dù thấy mình bị người lương dân chế nhạo, cũng chẳng nản lòng bỏ cuộc kể cả đôi khi cảm thấy bị dội vì đã không thể diễn tả cho đúng trong tiếng Ba Tư; cha cũng chẳng bao giờ nản chí trong những dịp ích lợi cho phần rỗi người lương dân, không sợ sệt, không e ngại chút nào, hơn nữa, còn được thúc đẩy ước ao chịu chết bằng con đường đó. Đôi lúc xem ra cha nhiệt tình quá mức (nếu cha có thể vượt qua khỏi) đến nỗi cha nghĩ là mình đã chẳng mang lại kết quả ở đây như cha đã làm được ở nước khác. Thật ra không hẳn là không có kết quả, cũng chẳng phải là cha nhụt nhuệ khí, nhưng chỉ do thiếu mầm mống vì không được chuẩn bị và kém sâu lắng”. Sánh với cuộc thành công của Rhodes ở Việt Nam trước đó, thì Ba Tư chẳng có là bao, nếu không nói là thất bại. Chẳng riêng gì Rhodes, mà các nhà thừa sai ở xứ này cũng thế thôi. Chính Rhodes chẳng ghi lại gì đáng kể trong 5 năm 4 ngày ông ở Ba Tư. Quá là chênh lệch giữa xứ một ngàn một đêm lẻ với xứ Con Rồng Cháu Tiên! Ngày 5 tháng 11 năm 1660, Alexandre de Rhodes, nhà thừa sai của chúng ta qua đời tại Ispahan, thọ 67 tuổi. Liền đây, chúng tôi xin trình bày bức thư của cha Amé Chézaud, thuật lại lúc cha Rhodes bệnh nặng rồi qua đời. Đó là mục đích của tập này. II. Thư báo tin Alexandre de Rhodes qua đời 1. Vài điều cần lưu ý Chính bức thư do cha Amé Chézaud viết trong 3 trang giấy khổ 20cm60 x 29cm50, chữ viết nhỏ li ti, văn dài lê thê, nhiều chỗ chấm câu không rõ ràng, lại là thứ tiếng Pháp thế kỷ 17. Chính vì vậy, khi phiên dịch sang tiếng Việt, chúng tôi không thể dịch theo nghĩa từng chữ; đàng khác cũng không thể chấm câu hoàn toàn như nguyên bản. Chắc chắn trong bản dịch này có nhiều khiếm khuyết, mong bạn đọc chỉ giáo. 2. Tờ thứ nhất của bức thư Tờ thứ nhất của bức thư là tờ giấy trên đó viết mấy dòng chữ, đề tên, địa chỉ người nhận và tên cùng địa chỉ của người mà tác giả muốn nhờ ông chuyển cho người nhận thư. Chúng tôi tạm coi tờ giấy này như một bao thư, dù không mang hình thức bao thư, không dán kín. Sau đó sang tờ thứ hai trở đi mới chính thức là bức thư. Vậy chúng tôi xin mô tả chi tiết hơn mấy dòng chữ tờ thứ nhất của bức thư này. Trên cùng trang giấy của tờ thứ nhất, có ba loại nét chữ khác nhau, chứng tỏ do ba người viết: Amé Chézaud và hai người khác. a. Trước hết là nét chữ của chính tác giả bức thư, cha Amé Chézaud: Gửi cha đáng kính / Jacques Renault / Giám tỉnh Dòng Tên Pháp / tại Parys. (A Mon Reuer, Pere / Le P.Jacques Renault Pro = / uincial de france de la Compagnie / de Jesus / a Parys) Nhờ cha đáng kinh Georges / de Rhodes cũng thuộc Dòng Tên / tại Lyon. (Rẽcommandee au R.P.Georges / de Rhodes de la mesme Compie / a Lyon. b. Tiếp đến là chữ một người khác viết bằng La ngữ, nhưng chúng tôi không biết của ai; chỉ phỏng đoán của người làm việc ở Kho lưu trữ; Cha Alessander de / Rodes / qua đời / tại Aspan tháng 11/1660. (Obiit / P. Alessander de / Rodes Aspani nouẽ / 1660) c. Sau cùng nét chữ của người thứ ba, trên cùng trang giấy; chúng tôi cũng không biết do ai viết: Thư này được viết / do chính tay / cha Aymé Chezaud. (Cette lettre est escrite / de la propre main / du P.Aymé Chezaud) Để bạn đọc hiểu biết rộng hơn, chúng tôi xin ghi lại tiểu sử hai nhân vật mà chúng tôi có tư liệu: Amé Chézaud và Georges de Rhodes: Amé Chézaud (1604-1664); chính cha Chézaud ký tên Amé Chézaud trên bức thư cha viết tại Ispahan ngày 11-11-1660, đưa tin cha A.de.Rhodes qua đời; có người lại viết tên cha là Aymé Chezaud; còn cha Joseph Déhergne viết là Aimé Chézaud. Cha Chézaud sinh năm 1604 tại Lyon; giai nhập Dòng Tên tại Avignon 22-9-1627; khấn trọng tại nhà thờ thánh Giacôbê của Dòng Tên tại Marseille ngày 7-6-1637. Năm 1639 Chézaud đi truyền giáo tại Syria; năm 1652 cha lập cư sở (residentia) Dòng Tên tại Julfa gần Ispahan; khi cha Alexandre de Rhodes đến Ispahan làm bề trên cộng đoàn Dòng Tên ở đây, thì (có lẽ) chuyển cộng đoàn ở Julfa vào Ispahan. Từ khi Alexandre de Rhodes có mặt tại Ispahan, 1655, cho đến khi qua đời, 1660, Chézaud luôn ở với cha, trừ khoảng 11 tháng, 1658-1659, Chézaud theo lời yêu cầu của Alexandre de Rhodes, đi đường bộ theo ngả Khorassan đến vùng Tartarie truyền giáo. Không thành công, Chézaud lại trở về Ispahan khoảng cuối năm 1659 đầu 1660. Chézaud qua đời tại Ispahan ngày 14-9-1664 [8]. Georges de Rhodes (1597-1661), sinh tại Avignon 28-12-1597; là em ruột của cha Alexandre de Rhodes; gia nhập Dòng Tên tại Avignon 16-10-1613; qua đời tại Lyon 17-5-1661. Khác với anh mình là Alexandre, quãng đời của Georges quanh quẩn trong vùng Avignon và Lyon. Có lẽ chưa bao giờ Georges ra khỏi nước Pháp, chứ đừng nói đến việc đi tới những miền đất xa lạ ở châu Á như Alexandre. Xem ra hoạt động của Georges tập trung vào việc dạy học nhiều hơn; vì trong gần 25 năm trời cha dạy học ở trường Trinité và Notre-Dame-du-Bon-Secours là hai trường của Dòng Tên tại Lyon. Các môn Georges giảng dạy: Nhân văn (Humanités): 3 năm; Văn chương (Rhétorique): 2 năm; Triết học: 6 năm; Tín lý: 11 năm; Luân lý: 2 năm. Những năm cuối đời, Georges làm Viện trưởng Notre-Dame-du-Bon-Secours. Georges viết những bộ sách lớn bằng La ngữ, được ấn hành vào các năm 1661, 1664 và 1671: Disputationum Theologiae scholasticae in quibus Deus, angelus, homo, sex Tractatibus explicantur. Tomus prior, Lyon 1661, in-fol, 692tr. Disputationum Theologiae scholasticae in quibus Christus, Deipara, Sacramenta, sex Tractatibus explicantur. Tomus prior, Lyon 1661, in-fol, 680tr. Philosophia peripatetica, ad veram Aristotelis mentem. Libris quatuor digesta & disputata, pharus ad Theologiam scholasticam, Lyon 1671, in-fol, 704tr. 3. Bức thư phiên dịch sang tiếng Việt từ nguyên bản Pháp ngữ, kèm theo chú thích: “Thư Luân lưu [9] về cha Alexandre de Rhodes qua đời “Thư cha đáng kính. Bình an của Đức Kitô [10]. Xin báo tin cha hay, cha Alexandre de Rhodes đã qua đời tại đây vào ngày 5 tháng mười một, sau một cơn bệnh lâu dài và lên xuống thất thường. Bởi vì bệnh sưng bụng làm cha yếu mệt hầu như trọn tháng chín, tiếp đến là bệnh nhức buốt tai hại làm cha đôi khi không dâng Thánh lễ được (điều này còn gây đau đớn cho cha hơn là cơn bệnh). Tình trạng trên kéo dài đến giữa tháng mười, mà chẳng có phương thuốc nào giúp cha dễ chịu hơn. Từ đó cha phải nằm liệt giường, không còn dâng Thánh lễ được, vì cha còn bị rơi vào một thứ bệnh rỉ máu mà như người ta xét đoán do ung nhọt trong ruột. Chứng rỉ máu hay xảy ra, đã chẳng cho cha nghỉ yên chút nào ngày cũng như đêm. Những cơn khó chịu ấy kèm theo sự chán ngấy, đúng hơn là ăn chẳng biết ngon, rồi đến đau lá lách. Người ta đã chữa cha bằng mọi thứ thuốc mà người ta đoán phải có lợi cho cha, nhưng tất cả những thứ bệnh ấy chẳng chịu một loại thuốc nào. Rõ ràng là sức khoẻ của cha rất tàn tạ, suy nhược. Tuy nhiền nhờ tim cha còn tốt, nên ngay những ngày cuối cùng của cơn bệnh, chúng tôi thấy cha ít khi lên cơn sốt. Hy vọng những thứ bệnh đang tấn công cha, sẽ không thể làm cha chết vào chiều thứ sáu 5 giờ trước khi cha tắt thở. Vì lúc đó dường như sức khoẻ tốt hơn, nên cha dùng bữa theo thường lệ. đến bốn hoặc 5 giờ sau, nhờ ơn Chúa, cha chịu phép Bí tích rồi linh hồn về với Chúa cách nhẹ nhàng và thánh thiện. Tôi muốn nói mà không thêm bớt chút nào, đó là cha đã kết thúc cuộc đời như ngọn nến tàn dần. “Theo tôi, đã từ lâu chẳng những cha ước ao, mà còn dự đoán và biết trước thời điểm định mệnh đó. Vì từ khi tu huynh Georges Berthe [11] và tôi trở lại đây, đến nay được một năm, thì cha đã nói với chúng tôi, cha tin tưởng rằng Chúa đã cho phép chúng tôi trở về để giúp cha trong giờ chết, kẻ giúp về phần thiêng liêng, người về phần xác. Từ đó cha chuẩn bị chết bằng cuộc linh thao thường niên với một tâm hồn sốt sắng mới mẻ, đặc biệt cha xưng tội chung về cả cuộc sống cũng vì ý ấy. Do đó, cha dọn mình kỹ lưỡng và lâu dài; cha xét mình và viết ra cả những chi tiết cùng hoàn cảnh lầm lỗi bé nhỏ nhất. Bởi đấy cha chỉ có thể hoàn thành trong nhiều ngày, luôn luôn với sự xúc động bề trong cũng như bề ngoài khi ăn năn tội, một sự xúc động lâu dài như cuộc đời của cha; mỗi lần xưng tội là mỗi lần cha xúc động. Cha xưng tội hàng ngày theo thói quen bao nhiêu có thể, ít nhất từ khi cha có mặt ở đây [1655]. Trong việc xưng tội, cha tìm ra chất liệu [tội] để xưng với một lương tâm kính sợ Chúa tới mức bối rối, coi là tội những thứ không phải là tội và cha dọn mình rất kỹ lưỡng như tôi biết, vì trong 5 năm 4 ngày[12] tôi được hân hạnh làm người giải tội cho cha (trừ khoảng 11 tháng tôi vắng mặt). “Hầu hết và có thể nói là tất cả thư từ cha viết trong năm nay [1660] chứng tỏ rõ cha đã dự đoán cái chết gần kề; những ai nhận được thư cha viết trước khi phát cơn bệnh, đều có thể thấy điều đó. “Cha đã xin tôi cho cha biết khi cơn bệnh trở nên nguy kịch, nếu người ta đoán được thực là nguy. Nhưng khi chúng tôi biết được thì chẳng còn thuốc nào chữa nổi. “Vào lúc hai giờ chiều, cha ngủ thiếp đi mà chúng tôi lại nghĩ là tốt, vì xem ra giấc ngủ khá êm đềm và mạch của cha lại không giống với người chữa trị đã nhận định là mạch người sắp chết. Tuy thế tình trạng này kéo dài tới khi cha tắt thở tức là khoảng tám giờ sau [13]. “Cha dâng Thánh lễ cuối cùng ngày 24 tháng mười, sau đó phải liệt giường hoàn toàn và xưng tội cùng rước Mình Thánh Chúa nhiều lần. Chính cha ước ao được ăn năng rước Mình Thánh, nhưng vì lòng cung kính lại không dám, bởi nghĩ mình chẳng xứng. “Bệnh rỉ máu hành hạ cha hầu như đêm ngày bất kể giờ giấc. Trạng thái yếu liệt cuối cùng này gây bất lợi cho chúng tôi và làm cho chúng tôi mất an ủi, vì chúng tôi hy vọng qua lời chúng tôi hứa với nhau, cha sẽ được đóng ấn cuộc đời bằng việc chịu phép Xức dầu bệnh nhân; nhưng cơn yếu liệt ấy đã cất khỏi cha không còn dịp tỏ lòng sốt sắng bằng việc lãnh nhận phép Xức dầu, điều mà cha đã xin từ trước. “Đó, cái chết đã xảy ra với cha vào tuổi ngoài lục tuần bắt đầu kể từ ngày tháng năm [14] là lúc cha sinh tại Avignon; như thế người ta có thể nói là cha là người của thế kỷ khác, do đời sống của cha gần với đời sống các tông đồ hơn là vì số những năm cha sống. “Cha qua đời để lại cho chúng tôi nhiều nuối tiếc và an ủi: Nuối tiếc vì mất cha, không những đối với chúng tôi, mà còn đối với biết bao vị thừa sai rải rác trong khắp phương Đông này (Leuant) là những nơi cha đã lay chuyển họ cách hữu hiệu và cha còn làm nhiều việc để chỉ đường dẫn lối cho họ, tỏ ra săn sóc họ bằng tâm tình người cha, cho họ lời khuyên và khuyến khích họ bằng lòng nhiệt tình của người cha; an ủi, vì người ta sẽ còn tưởng nhớ đến cha lâu dài, chẳng những nhờ một số thư từ rất xây dựng mà cha đã viết và soạn thảo do kiến thức của cha, mà còn nhờ các bản tường thuật và các tác phẩm cha đã biên soạn để xây dựng cho mọi người [15]. Cho nên chẳng cần tôi phải viết lại cuộc đời của cha, vì chính cha đã làm khá nhiều cho người ta biết công trình của mình. “Nước Ý và nước Pháp là những nơi cha đã từ đó đến đây, tỏ ra tôn kính cũng như ngưỡng mộ cha và nhiều vị cao cấp ủng hộ cha [16]. Danh giá mà tất cả mọi người dành cho cha nói chung cũng là vì người ta cho rằng cha có một đời sống thánh thiện. Quả thật tôi chưa thấy một ai rất đúng mực như cha trong tất cả mọi việc cha làm. Nếu viết về các nhân đức của cha, không biết phải bắt đầu từ nhân đức nào. “Xem ra nhân đức thứ nhất phải kể ra đây là cha luôn hãm mình phạt xác, vì mọi ngày cha đều đánh tội trừ ngày Chúa nhật và Lễ trọng; đó là thói quen cha hằng giữ cho đến cơn bệnh cuối cùng này. Trong tuần lễ, có mấy ngày cha cũng mang một dây ngang thắt lưng, bện bằng sợi arrhal có nhiều mũi nhọn, mà khi người ta tắm xác cha đã nhận ra nhiều dấu vết trên mình. Cha kiêng thịt mọi ngày, thường chỉ ăn rau hay thứ gì giống như vậy thay cho bữa tối. “Cùng với những hãm mình thể xác, cha còn nhiều hãm mình nội tâm; vì khi còn khoẻ mạnh, ngày nào ch cũng thức dậy một giờ trước những người khác để cầu nguyện (ngoài thói quen cầu nguyện theo luật Dòng Tên). “Việc cha liên tục học hỏi đường thiêng liêng vẫn không ngăn trở cha học tiếng Ba Tư. Để tiếp tục học được ngôn ngữ này, cha vận dụng nhiều công sức như một chàng trai trẻ khoẻ mạnh phải làm hết mình cho công việc đó. Muốn được tiến bộ, cha tập viết không biết mệt mỏi. “Lòng nhiệt tình của cha không phải chỉ đóng khung trong nước Ba Tư bao lâu cha còn có mặt tại đó, mà còn mở rộng ra khắp phương Đông. Vì vậy, dù cha chẳng đi tới vùng rộng lớn Tartarie [17] được, nơi Dòng Tên chưa mở cuộc truyền giáo, cha lại cổ võ tôi đi tới đó, rồi phái một tuy huynh [Georges Berthe] đi cùng với tôi, mà không giữ chúng tôi ở lại cùng cha. Việc truyền giáo ở đó không thành công (cũng do những bất toàn của tôi). Cha còn muốn mở cuộc truyền giáo cho người xứ Géorgie, nhưng đâu có người để gửi đi. “Tính dịu dàng của cha đã làm cha luôn luôn ứng xử như con chiên giữa bày sói, chịu đựng vui vẻ những lời lăng nhục, khinh bỉ và cả gạch đá, mà bây giờ tại đây người ta quen tiếp đón chúng tôi như thế, đáp lại phần thưởng đó là những lời như Sữa tốt lành ngọt ngào cùng lời chúc lành”. “Để tỏ lòng nhiệt thành, cha đi khắp các làng chung quanh tìm kiếm trẻ em bệnh hoạn, hy vọng rửa các em bằng nước thanh tẩy khi các em gần sinh thì. Cha không sốt ruột dù thấy mình bị người lương dân chế nhạo, cũng chẳng nản lòng bỏ cuộc kể cả đôi khi cảm thấy bị dội vì đã không thể diễn tả cho đúng trong tiếng Ba Tư [18]; cha cũng chẳng bao giờ nản chí trong những dịp ích lợi cho phần rỗi người lương dân, không sợ sệt, không e ngại chút nào, hơn nữa, còn được thúc đẩy ước ao chịu chết bằng con đường đó. Đôi lúc xem ra cha nhiệt tình quá mức (nếu cha có thể vượt qua khỏi) đến nỗi cha nghĩ là mình đã chẳng mang lại kết quả ở đây như cha đã làm được ở nước khác. Thật ra không hẳn là không có kết quả, cũng chẳng phải là cha nhụt nhuệ khí, nhưng chỉ do thiếu mầm mống vì không được chuẩn bị và kém sâu lắng”. Tất cả các Kitô hữu và nhiều lương dân tỏ lòng rất kính phục cha, ngay cả những người không quen biết cha cũng thế, dù chỉ thấy cha khi đi ngang qua. Nhiều người coi cha như một vị Giám chức vì cha nghiêm trang, đĩnh đạc và khiêm tốn. Những người khác lại gọi cha là nouroni, nghĩa là sáng rực hay đầy ánh sáng; có những kẻ gọi cha là thánh, vì ngưỡng mộ cha có tư cách thánh. “Tôi không muốn nói đến đức vâng phục và khiêm tốn của cha, vì nếu có nói, tôi chỉ nói được cách mập mờ. Tuy nhiên, nếu ai muốn biết cảm nghĩ của tôi và của anh em chúng tôi về điều đó thì chúng tôi đều đồng tâm nhất trí về điều này để nói rằng, cha thật tuyệt vời . Ai đã biết cha nhờ sống với cha thì chẳng hồ nghi về điều này. “Lòng bác ái của cha đối với người nghèo, người bệnh, dù là người trong nhà hay người ngoài cũng được cha đối xử như nhau. Đối với kẻ này cha như là người cha, với kẻ khác cha như là người mẹ. Bằng chứng là, trong khi cha bệnh, cũng có một người phục vụ trong nhà cùng nằm bệnh với cha, đã được cha săn sóc còn hơn là săn sóc cho chính cha, vì cha không chịu để cho anh ta thiếu thốn gì. Cha hạ mình làm những công việc thấp hèn nhất, những việc càng khó thì cha càng tin tưởng vào Chúa. Cha theo ý Chúa coi như ý mình, dù bất cứ sự gì xảy đến. Tính dịu dàng của cha trong khi chuyện trò và sự hiện diện của Chúa, là hai yếu tố làm nên đức tính trên. “Đức trong sạch của cha lại không thể nào không bằng các đức tính khác. Tôi không thấy người nào thận trọng hơn cha trong việc gìn giữ giác quan nhất là sự nhìn xem; đối với các cuộc thăm viếng của phụ nữ, cha tiếp đãi họ chỉ vì lòng bác ái. “Trong khi trò chuyện với người Hồi giáo, cha tìm cách cho họ biết bao nhiều có thể về hai mầu nhiệm chính của Đức Tin chúng ta, đó là Thiên Chúa Ba Ngôi và Ngôi Lời nhập thể. Trong các lời chào hỏi của người Hồi giáo, họ thường nói Khoda nigah darad (Thiên Chúa gìn giữ anh chị), nhưng cha lại chào họ Hhazaret eissé hay Christus nigah darad (Đức Giêsu Kitô gìn giữ anh chị ) để họ hiểu rằng Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa [19]. “Dù định viết vắn tắt, tôi cũng không được phép không nói gì về lòng sùng kính của cha đối với phép Thánh Thể, với Đức Thánh Trinh nữ, các Thiên thần và một số vị Thánh, cách riêng các Thánh trong Dòng chúng ta, nhất là các đấng tử đạo mà cha biết mặt và cha còn ghi nhớ như mới tinh. Khi nhớ tới các vị tử đạo trên đây, trong lòng cha pha lẫn một nỗi ưu phiền thánh thiện, vì đã không có được giờ phút giống như các ngài, đổ máu mình ra hay phải uống nước [20] hoặc bị treo hố [21] ở Nhật Bản như nhiều bạn bè của cha, mà cha còn mang di tích thánh của các ngài trên mình cách rất tôn kính [22] và ước mong được kết thúc đời sống bằng cuộc tử đạo nếu Chúa ban ơn này cho cha mà cha hằng khẩn thiết cầu xin. Vì tôn kính các đấng tử đạo, cha còn lưu ý đến việc hàng ngày trong bữa ăn đọc truyện vài vị tử đạo, hoặc anh em trong Dòng qua đời nhờ tin tức do các anh em gửi đến. “Lòng sùng kính của cha đối với Đức Mẹ Thiên Chúa được nhận thấy mỗi khi cha nói với người tín hữu hay người lương dân. Để tỏ lòng tôn kính Đức Mẹ Thiên Chúa, hàng ngày cha còn lần hạt ngoài các việc sùng kính khác. “Đàng khác, ngay từ khi còn nhỏ tuổi cha đã khấn hứa cách riêng giữ đức khiết tịnh, cho nên cha không thể chịu đựng được khi người đời nói chuyện với cha hay trước mặt cha mà nói tục. Những khi ấy cha cảnh cáo họ cách nhẹ nhàng để họ đừng nói như thế nữa, và thường là có hiệu quả. Cha cũng hành xử như vậy đối với những ai vì bất cẩn hay vì lý do nào khác mà buông lời gièm pha hay làm hại danh giá người thân cận. “Tôi chắc chắn rằng những ai trong anh em chúng tôi đã được cha cùng sống và cùng làm việc lâu dài, có thể còn nói nhiều chi tiết đặc biệt hơn về điều sau đây trong bản tường thuật này; điều đó lại chính là điểm cuối cùng cuộc đời cha, tỏ ra đâu là mấu chốt của mọi thứ dệt nên đời cha. Chưa bao giờ người ta thấy một tu sĩ giống như cây gậy của ông già, chưa thấy cha trong tất cả cơn bệnh; cha nhẫn nhục, nhạy cảm hơn cả cây gậy, vì cha sẵn sàng ở tư thế như người ta muốn, đến mức như cha còn có ý chí hơn cả cây gậy, chẳng tỏ ra một dấu hiệu nào là đau đớn, cũng chẳng tỏ ra khó chịu khi phải dùng thuốc hay đồ ăn người ta trao cho. Về điều này chúng tôi phải ngưỡng mộ cha trong bữa ăn cuối cùng, khoảng 3 hoặc 4 giờ trước khi cha trút linh hồn, vì cha tỏ ra vâng phục y tác của cha cách lạ lùng [23]. Dù khi đó giác quan của cha bị suy nhược, song cha chẳng quên chút nào việc làm phép và tạ ơn, hơn nữa còn làm dấu Thánh giá theo thói quen của cha trên ly thuốc người ta trao cho cha uống. “Liền sau đó là cơn hấp hối nhẹ nhàng, rồi cha tắt thở. “Đó là cái chết mà trước mặt Chúa còn cao quý hơn việc chúng tôi xúc động vì mất cha. Nếu chúng tôi thường coi sự ra đi của cha là mất mát, thì công phúc của cha làm cho chúng tôi, đúng hơn phải coi đó là lợi ích. Chúng tôi hy vọng nói như thế mới phải, dù cha không còn hiện diện để gầy dựng xứ truyền giáo này; chúng tôi vẫn tin một cách đạo đức như là cha đang còn ở đây, nơi cha đã làm được nhiều việc, và cha còn hiện diện hơn nữa tại chính nơi chúng tôi đang ở. “Vì nhiều lý do, chúng tôi không an táng cha trong nhà chúng tôi, nhưng trong nghĩa trang chung cho các Kitô hữu, khu vực dành cho những người Công giáo. Thứ nhất, chúng tôi chỉ có một nhà nguyện ở tầng hai nên chẳng thể an táng cha ở đó, ngoài ra cũng chẳng còn nơi nào trong nhà chúng tôi ở dành cho việc này được. Thứ hai, chúng tôi cũng chẳng dám chắc mình ở nhà này lâu, vì có điều khác chắc, như chúng tôi phỏng đoán theo lời Thủ tướng Etemad Dautet đã có lần nói với tôi là, người ta sẽ di dời tất cả các tu sĩ ra ngoại thành [24]; đó cũng là nơi người ta sẽ đưa mọi Kitô hữu xứ này ra ở đó, kể cả giáo dân người Pháp. Thứ ba, chính cha cũng tỏ ra thích nếu được an táng nơi đó hơn là trong nhà chúng ta. “Có lẽ vì lý do thứ hai trên đây mà chúng tôi cử hành tang lễ cha vào ngày hôm sau. Tất cả tu sĩ các Dòng có thể tham dự lễ an táng được, đều có mặt, gồm các tu sĩ Augutinh, Cát Minh, Capuxinô, cùng giáo dân Pháp, Bồ Đào Nha, Anh, Hà Lan và mấy người Arméniens. Chưa bao giờ thấy tại đây một đoàn người như thế dự lễ an táng. Họ tiễn biệt cha tới nghĩa trang xa nhà chúng tôi khoảng một dặm rưỡi. Cha Tu viện trưởng Dòng Augutinh, Đại diện tông tòa, cử hành nghi lễ (Le RP Prieur des Augustins, Vicaire, Aptq (apostolique) fit l’office); rồi 7 ngày sau cha còn cửa hành Lễ hát trọng thể trong nhà nguyện chúng tôi, cũng có mặt tu sĩ các Dòng trên đây. “Phần đông người Arméniens đều cảm thấy vui mừng và vinh dự vì đã an táng cha gần với các ngôi mộ của thân nhân họ, bởi vì họ nghĩ rằng cha là đấng thánh và có lẽ (họ nói thế) còn là thánh duy nhất nằm tại đó. Đàng khác, cũng là ngôi mộ duy nhất của các tu sĩ Pháp, vì tu sĩ các Dòng khác qua đời tại đây, đã được an táng trong nhà thờ của họ. Từ ngày an táng cha, nhiều Kitô hữu của chính xứ này, các linh mục và giám mục đã đến cầu nguyện bên phần mộ cha, xin cha bầu cử cùng Chúa cho mình. Họ cũng đã nói với tôi và khuyên tôi sau một năm thử mở mộ cha xem thế nào, vì nghĩ rằng xác cha sẽ còn nguyên vẹn không bị hư nát. “Sinh thời ít khi ra ngoài mà cha không mang trong mình cuốn Tin Mừng bằng tiếng Ba Tư để sử dụng khi có dịp; đến lúc chết cha lại mang cách vẻ vang từ nội thành ra ngoại thành, điều mà chưa ai làm bao giờ. Quan tài cha được phủ bằng tấm nhung đen trên có hình Thánh giá bằng nhung trắng nhìn thấy khá rõ. Làm như thế rất xứng đáng với đời sống của cha. Vậy là ngay cả khi chết, cha còn rao giảng Thánh giá như thế cho những người lương dân này. “Nếu tiếng dân là tiếng Chúa, người ta không còn hồ nghi cha không phải là một vĩ nhân (nếu không nói là ông thánh). Cảm nghĩ đó vì công trạng của cha, là cảm nghĩ chung của cả những người ở nước Ý và Pháp, khi cha đi qua đấy để tới đây [Rhodes ở Ý và Pháp từ 1649-1654]; ngay những người láng giềng với chúng tôi, dù là Hồi giáo cũng tỏ ra có cùng cảm nghĩ ấy. “Về phần chúng tôi còn ở lại đây, chúng tôi có thể nói chắc rằng: chiếc cột nâng đỡ nhà chúng tôi đã đổ, ngọn đuốc soi sáng cho chúng tôi đã tắt, người khởi sự và phát triển công việc truyền giáo xứ này được an táng như vậy sẽ là viên đá tảng cho chúng tôi, người trung gian của chúng tôi đã rời bỏ chức vụ ở đời này để thi hành việc đó trên trời bằng cách bầu cử cho biết bao xứ truyền giáo đã coi cha như người cha, cách riêng xứ truyền giáo này tự coi mình như con út của cha, nên đã làm những bổn phận bình thường cuối cùng đối với cha. “Xin cha đáng kính hãy dâng niệm kỳ kinh (suffrages) cho cha theo thói quen, hy vọng nhờ cha trợ giúp một ngày kia chúng ta sẽ được dự phần triều thiên với cha, dù chúng ta chẳng có công trạng xứng đáng và còn thuộc hạng rất thấp. Cũng vì mục đích ấy, chúng tôi và riêng tôi còn khẩn nài cha và tất cả anh em chúng ta [Giêsu hữu] ở bên ấy [Tỉnh Dòng Tên Paris] cầu nguyện cho cha trong các Thánh lễ. “Tại Ispahan ngày 11 tháng mười một năm 1660. “Người tôi tớ rất hèn mọn và người con vâng phục của cha đáng kính trong Chúa chúng ta. “Amé Chézaud S.J” Chú thích[1] Michel Barnouin, La parenté vauclusienne d’Alexandre de Rhodes (1593-1660), Extrait des Mémoires de l’Académie de Vaucluse, Huitième Série, Tome IV- Année 1995, Avignon 1995 tr.29 [2] Tuần báo Công giáo và Dân tộc, số 852, ngày 12-4-1992, tr.13 [3] Chúng tôi đã đến Avignon cách đây 31 năm để tìm hiểu dòng tộc Rhodes và nơi ông sinh trưởng. Các Sổ Rửa tội thời đó liên quan đến Jean, Alexandre, Georges và mấy người em khác đã mất; chỉ còn lại Sổ Rửa tội ghi tên 2 người em ruột là Francois di Roddi (Rhodes) rửa tội 12-7-1604 và Hélène ngày 22-2-1607. Nên nhớ ngày 20-9-1792, nước Pháp (Avignon vừa sáp nhập vào Pháp được 1 năm) mới chính thức công bố Luật về khai sinh, giá thú, khai tử. [4] Tóm lược theo Francois de Dainville, La naissance de l’Humanisme moderne t.I Paris 1940, tr.85-95. [5] Archivum Romanum Societatis Iesu, Fondo gesuitico, số 732, 734, 735. [6] Alexandre de Rhodes, Divers voyages et missions, Paris 1653, tr.21 [7] A.De.Rhodes, Relation des progrez de la Foy au Royaume de la Cochinchine, Paris 1652, tr.132: lên tàu ngày 9-7-1645; A.De.Rhodes, Divers voyages et missions, Paris 1653, tr.269: lên tàu ngày 3-7-1645. [8] Joseph Déhergne, Répertoire des Jésuites de Chine de 1552 à 1800, Roma-Paris, 1973 tr.54. [9] Đây là thư của cha Amé Chézaud gửi cha Giám tỉnh Dòng Tên Pháp, Jacques Renault; nhưng xem ra còn có mục đích chuyển cho các Giêsu hữu trong Tỉnh Dòng, nên tác giả đã ghi Lettre Circulaire, mà chúng tôi tạm dịch là Thư Luân lưu.[10] Bình an của Đức Kitô: Trong các thư từ, tường trình của anh em Giêsu hữu thời đó, thường ghi ở đầu dấu Thánh giá và chữ Pax Christi.[11] Nhà Dòng Tên ở Ispahan thời đó thuộc Tỉnh Dòng Tên Pháp, gồm 3 người: cha Alexandre de Rhodes, bề trên; cha Amé Chézaud và tu huynh Georges Berthe, cũng viết là Georges Berghé, hay như A. Chézaud lại viết là George Berthe. Tu huynh George Berthe sinh 1622 tại Bourges, Pháp; gia nhập Dòng Tên 5-1-1638; khấn lần cuối cùng 28-9-1653 tại nhà thờ Saint-Louis, Paris. Chúng tôi phỏng đoán tu huynh Berthe đã cùng sống với Amé Chézaud tại Julfa, gần Ispahan, rồi cùng Chézaud đến ở tại Ispahan với A.de Rhodes. Berthe đã đi vùng Tartarie với Chézaud để truyền giáo vào khoảng 1659, nhưng không thành công. Năm năm sau, 1664, Berthe lại đi Trung Quốc truyền giáo, nhưng qua đời trên đường đi (in itinere ad Sinas) 7-2-1664). [12] Alexandre de Rhodes rời Marseille 16-11-1654 để đi Ba Tư theo lệnh Bề trên Cả Dòng Tên. Trên đường đi, cha ngừng tại đảo Malte, bỏ Malte 2-12-1654 tới Seyde thuộc Syria 11-12-1654, mừng lễ Giáng sinh tại Đất thánh. mãi tới 1-11-1655, Rhodes mới có mặt tại Ispahan, thủ đô Ba Tư thời ấy. Vậy, kể từ khi Rhodes hiện diện tại Ispahan đến khi qua đời, được đúng 5 năm 4 ngày như Chézaud ghi nhận. [13] Theo Chézaud, Rhodes tắt thở khoảng 10 giờ đêm, tức 22 giờ ngày 5-11-1660. [14]. Trong thư, Chézaud không nhớ rõ ngày tháng năm sinh của Rhodes, nên liền những chữ ngày tháng năm sinh, Chézaud còn để trống. [15] Từ năm 1650-1659, Rhodes đã cho xuất bản tại Roma, Paris, Lyon, 10 tác phẩm bằng các ngôn ngữ Ý, Latin, Việt, Pháp, thuật lại những hoạt động truyền giáo của cha và của các bạn cùng Dòng. Nếu Rhodes không để lại những công trình trên, thì ngày nay chẳng biết được con người và hoạt động của cha. Trong 10 tác phẩm, 8 viết về Việt Nam, 1 về Nhật Bản, 1 về Ba Tư. [16] Sau khi phải bỏ Đàng Trong vì bị chúa Nguyễn Phước Lan trục xuất, Rhodes về Áo Môn (Macao) rồi về Roma, Lyon, Paris, vận động cho có giám mục đến Việt Nam. Những hoạt động sôi nổi của Rhodes tại Roma (1649-1652) và tại Pháp (1652-1654), làm cho nhiều người Ý và Pháp biết đến công việc của cha ở Đàng Ngoài và Đàng Trong. [17] Tartarie, danh từ địa lý xưa chỉ phần lớn các vùng Mông Cổ, Mãn Châu, Tân Cương, Afgahanistan và Baloutchistan. Trước thế kỷ 14, người ta gọi Tartarie chỉ riêng cho vùng Tân Cương. Theo chúng tôi, khi Chézaud nhắc tới vùng Tartarie, có thể hiểu là vùng Tân Cương phía cực Tây của Trung Quốc ngày nay; vì, theo J.Déhergne, chuyến đi của Chézaud qua ngả Khorassan (Joseph Déhergne, Répertoire des Jésuites de Chine de 1552 à 1800, Roma-Paris, 1973 tr.54). [18] Trong thư A.de Rhodes gửi cho người em ruột là Georges de Rhodes, viết tại Ispahan 20-5-1658: từ khi anh ở xứ này, Chúa ban cho anh học được tiếng Ba Tư: anh biết vừa đủ để giảng (Kho lưu trữ Dòng Tên Tỉnh Paris, Fonds Rybeyrete, n.161) [19] Vì người Hồi giáo chỉ coi Đức Giêsu Kitô là một người, cũng được dựng nên từ bụi đất như Ađam, do Thiên Chúa sai đến, nhưng không phải là Thiên Chúa. Theo Hồi giáo, ai nói Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa, mắc tội phạm thượng (Kinh Koran, chương 2, câu 81; chương 3, câu 52; chương 5, câu 76). [20] Hay phải uống nước (ou boire ces eaux): hiểu được chăng là những thừa sai bị chết đắm tàu khi đi truyền giáo. [21] Tục xử bị treo cổ trên hố xuất hiện ở Nhật khoảng từ cuối thế kỷ 16: nạn nhân bị treo ngược đầu trên một hố mới đào; sau khi chết, người ta cắt dây cho xác rơi xuống hố. Hình khổ này tiếng Nhật gọi là Ana-tsurushi. Vào thế kỷ 17 nhiều thừa sai ở Nhật bị hành quyết như vậy. [22] Vì tôn kính Anrê Phú Yên tử đạo ở Quảng Nam 26-7-1644, cha Rhodes giữ sọ của vị này bên mình, rồi mang về tới Roma. Hiện nay sọ của Anrê Phú Yên đang được đặt tại trụ sở Bề trên Cả Dòng Tên ở Roma. [23] Rhodes là tu sĩ năng nổ, nhiệt tình, can đảm, có nhiều sáng kiến, dám nói, dám làm, nhưng rất vâng phục bề trên. Đọc hết cuốn Divers voyages et missions của cha, chúng ta cũng thấy được cha có đức vâng phục đáng ca tụng: Trên đường đi Nhật Bản phải ngừng hơn hai năm tại Goa, không tiếp tục đi Nhật được vì cấm đạo, nên cha đã vâng lời bề trên tạm ở lại Goa; khi tới Áo Môn, không thể đến Nhật được, cha vâng lời bề trên đến Đàng Trong cuối năm 1624; sau khi bị trục xuất khỏi Đàng Ngoài năm 1630 cha cũng vâng ý bề trên ở lại Áo Môn dạy thần học 10 năm, điều mà cha không thích; nhất là vâng phục bề trên ngừng hoạt động ở Pháp để đi Ba Tư truyền giáo từ cuối năm 1654. [24] Ngay giữa năm 1658, khi viết thư cho người em ruột là cha Georges de Rhodes, A.de Rhodes đã nhắc tới việc Thủ tướng Ba Tư cho biết sẽ chuyển các tu sĩ Tây phương ra ngoại thành (Kho lưu trữ Dòng Tên Tỉnh Paris, Fonds Rybeyrete, n.161) LƯU Ý : Xin Tu viện Dòng Tên Thủ Đức, nơi lưu giữ tài liệu của cha Đỗ Quang Chính sau khi ngài qua đời cho tìm lại bản sao tài liệu nguyên gốc nầy. Nếu được xin cho lm Antôn một bản photocopie…để triển lãm. Rất cám ơn.
MỘT ĐỜI TOÀN HIẾN CHO CHÚA VÀ CÁC LINH HỒN.
MỘT GƯƠNG VÂNG PHỤC VÀ KHIÊM NHƯỜNG SÂU THẲM.
TẠI SAO MÃI ĐẾN HÔM NAY NGƯỜI ĐỜI VẪN TỎ RA VÔ ƠN, HỬNG HỜ VÀ BẤT CÔNG VỚI CHA ĐẾN THẾ.
VỚI HẠNH PHÚC THIÊN ĐÀNG, XIN CHA TIẾP TỤC ĐỘ TRÌ CHO ĐẤT NƯỚC ĐẠI VIỆT – ĐÀNG TRONG CHÍ ĐÀNG NGOÀI – MÀ CHA ĐÃ HẾT LÒNG YÊU MẾN VÀ PHỤC VỤ.
LẠY CHA (THÁNH) ALEXANDRE DE RHODES, XIN CẦU CHO CHÚNG CON.
CHA ĐẮC LỘ VIẾNG HANG ĐÁ NHÀ THỜ CHÍNH TÒA ĐÀ NẴNG
NĂM….1993. LM ANTÔN ..ĐÓN TIẾP???
ĐÀ NẴNG 16/9/2013
VINH QUANG THẬP GIÁ CHÚA KITÔ.
SUY TƯ NHÂN NGÀY LỄ TÔN VINH THÁNH GIÁ
14/9/2013.
“ Trên Thánh giá Chúa cười”
Cái ông thi sĩ to con Hải Hồ của Giáo Hòang Học viện ngày ấy viết câu thơ nầy trước hoặc sau năm 1970 là đề tài chòng ghẹo của anh em. Lm Antôn vừa vào những năm thần học – chỉ nhớ có mỗi câu nầy – cũng nghĩ: “rõ là thơ với thẩn”.
Vậy mà câu thơ ấy lại bám sát đời mình vào những năm tháng khó khăn, những phút giây thử thách nhất.
Trên Thánh giá Chúa cười được sao? Mình có thể biết bắt chước Chúa mà “cười” không nhỉ?
Thi sĩ “thấy” những gì mà không ai tài nào tưởng tượng được.
Xin cám ơn thi sĩ Hải Hồ với một câu thơ tưởng rất buồn cười mà vô cùng sâu sắc, đã giúp mình luôn hạnh phúc ngẩng cao đầu trước mọi gian lao.
“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo” (Lc 9:23). Thánh Phaolô, các thánh Tông đồ hiểu rõ, hàng triệu vị Thánh từ hiển tu, đồng trinh, tử đạo …; Đức Giám mục Pierre Lambert de la Motte và dòng “Câu rút” (Crux) tức Mến Thánh Giá đã hiểu.
Hàng tỷ người đã sống , đang và sẽ sống theo Chúa Kitô cũng đã, đang và sẽ hiểu như thế.
“Đối với tôi, sống là Chúa Kitô và chết là một mối lợi: thập giá Đức Kitô là vinh quang duy nhất của tôi”; “Với Đức Kitô, tôi đã bị đóng đinh; không còn phải là tôi sống, nhưng là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 19 -20).
Ai không hiểu và chấp nhận câu nầy không tài nào có thể làm môn đệ Chúa.
Chúa thường chọn những gì là nghịch lý.
Trí khôn nhân loại chào thua với Phúc âm Chúa Giêsu theo thánh Matthêô chương 5 và 6, với “tám mối phúc thật”, với chuyện “má trái má phải… với yêu kẻ thù”.
Con người qua các thời đại tưởng có thể tự tạo hạnh phúc cho mình. Giấc mơ tháp Babel vẫn còn đó.
Nhưng hảo huyền biết bao chuyện “xây tháp tận trời”.
Chỉ thấy máu và nước mắt qua mỗi trang sử nhân loại.
Cho đến một ngày Thiên Chúa xuống làm người bị treo lên Thập giá mới là giờ phút giải phóng toàn diện.
Nọc độc con rắn Địa đàng, hay bọn rắn lửa sa mạc thời Maisen đã được thay thế bằng dòng nước cứu sinh từ trái tim bị đâm thủng của Con Thiên Chúa Cứu đời trên khổ giá.
Từ là dấu hiệu của khổ đau, nhục nhã, hủy diệt, cây Thánh giá trờ thành biểu tượng vinh quang, chiến thắng, cứu rỗi.
Qua cuộc tử nạn đóng đinh thập giá, trước khi thở hơi cuối cùng, Chúa thật mãn nguyện “Mọi sự đã được hoàn tất (Ga 19,30) và Chúa có thể nở một nụ cười “ trên Thánh giá Chúa cười” như thi sĩ Hải Hồ cảm nghiệm.
Hãy cười tươi dù “cười là tiếng khóc khô không lệ” .
Hãy cười nụ cười Chúa Kitô cả khi “con tim tan nát” và trên mi là “những giọt nước mắt hồng”.
Hãy sống với tiếng cười, hãy chết trong nụ cười của Chúa trên Thập giá để rồi mãi mãi hạnh phúc trong Tình yêu Vĩnh hằng.
Ave Crux, Spes unica!
Xin chào Thánh giá. Hy vọng độc nhất!
THÁNH GIÁ LÀ ĐƯỜNG ĐỜI CON ĐI.
NÚI SỌ AN NGÃI 1970.
ĐÀ NÃNG 14/9/2013.
“MUÔN ĐỜI SẼ KHEN TÔI DIỄM PHÚC.”
LỄ THÁNH DANH MẸ MARIA
12 – 9 – 2013
“Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy;
mọi ngày đời được dành sẵn cho con
đều thấy ghi trong sổ sách Ngài,
trước khi ngày đầu của đời con khởi sự”
(Tv 139, 16).
Mỗi người Do Thái thấm nhuần Thánh Vịnh đều suy nghĩ như vậy. Hãy xem một vài vị: “Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi” (Is 49,1) ( Tiên tri Isaia 740 năm trước Công nguyên) “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi ; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.” (Gr 1,5) ( Tiên tri Giêrêmia 626 năm trước khi Chúa Giêsu ra đời) “Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân (Gl 1,15-16) (Thánh Phao lô 34 năm sau Công Nguyên)
Mẹ Maria không ngoại lệ.
“”Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, 47 thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. 48 Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. 49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! 50 Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
(LC 1, 47 – 50)
Kế tiếp ngày Sinh nhật Mẹ Maria, Đức thánh Cha Gioan Phaolô 2 thêm lễ Thánh danh Mẹ Maria hôm nay ngày 12 tháng 9. Tên cũng có thể hiểu chính là người. Maria, Nữ hoàng. Maria, giọt nước biển. Maria, Biển đắng…Vâng, tên Mẹ là Maria, một tên vô cùng vĩ đại, phổ biến. Cứ gỏ từ Maria, Marie, Mary, Myriam…trên Google search thử xem. Hãy vào trang hình ảnh (Images)…Maria, Người trinh nữ vừa là mẹ tuyệt vời của bao thế hệ loài người. Sao lục lại thơ văn ca ngợi Mẹ Maria của linh mục Nguyễn Xuân Văn…1002 câu trước khi qua đời năm 2002, chưa hoàn thành ý định. Những câu đầu đã bừng bừng lửa mến .
Bầu trời cao vút trong xanh
Gió thu man mác sương lành nhẹ rơi.
Thiên Thần bay lượn thảnh thơi
Hỏi nhau : Ai đó ! chào đời hôm nay?
Đẹp như ánh sáng đầu ngày
Hương thơm trinh khiết thoảng bay khắp trời
Hào quang muôn sắc hoa tươi
Trăng thu toả rạng chói ngời thiên cung.
Sao mai soi rõ mặt dung
10. Sáng như Bắc đẩu không trung chuyển vần.
Lời ca muôn vạn Thiên Thần
Chào mừng sinh nhật vang ngân dậy trời
Hoà trong tiếng khóc chào đời
Biến thành suối nhạc thành lời tình thương
Reo vui nhộn cả thiên đường
Muôn đời âm điệu du dương không ngừng.
Vọng vào âm phủ Tin Mừng
Tổ tông các đứng tưng bừng hân hoan.
E – va tổ mẫu nhân gian
20. Bấy lâu mong đợi khóc than đêm ngày
Từ ngày Sáng thế đến nay
Mừng vui nhảy múa, ngất ngây nghẹn lời.
A – dong tổ phụ cười tươi
Chúc mừng cháu gái mở thời hồng ân
Hiệp công cứu chuộc muôn dân
Đạp đầu rắn quỉ dưới chân uy quyền.
Theo lời Kinh Thánh lưu truyền
Cháu là người nữ tinh tuyền khiết trinh
Sẽ làm Mẹ Chúa uy linh
30. Khác xa tổ mẫu chúng sinh E – và
Mừng thay ngày cháu sinh ra
Phúc thay ngày cháu lánh xa hồng trần.
Lời chào của các Thiên Thần
Vang vào ngục tối thêm phần ước mơ
Con người trong cõi u mờ
Dệt niềm hy vọng bằng tơ khổ sầu
Muôn ngàn thế kỷ chìm sâu
Dưới lòng vực thẳm nhớ đâu tháng ngày
Nói lời vạn phúc hôm nay
40. Là nhờ cháu gái cơ may bằng vàng.
Nghe qua điển tích rõ ràng
Lâm bô vang dội một tràng pháo tay.
Mẹ cha tính đủ tháng ngày
Thấy con mắt phượng, mày ngài xinh tươi
Đặt tên theo luật từ trời
Ma-ri-a là biển đời đắng cay.
Gioa-kim thân phụ chau mày
An-na thân mẫu hiểu ngay ý chồng
Lấy lời êm dịu bảo ông :
50. Có ơn Chúa giúp thì không sợ gì”.
Ông bà cầu nguyện gẫm suy
Tên con ý nghĩa huyền vi khôn lường
Đọc lên nghe thật dễ thương
Âm ba vang dội bốn phương đất trời :
“Ma-ri-a con yêu ơi!
Tên con lòng mẹ muôn đời ghi sâu.
Mẹ yêu con đến bạc đầu
Vì con giãi nắng mưa dầu kể chi.
Con ơi! Con hãy ngủ đi
60. Gió vi vu thổi, mưa rì rào bay.
Ru con, con ngủ cho say
Mơ nhiều mộng đẹp cho đầy niềm vui.
Cho con thức với nụ cười
Với đôi mắt đẹp nhìn trời bao la.
Rồi đây mẹ sẽ dạy qua
Cho con biết có người cha trên trời
Yêu con từ thuở đời đời
Tạo nên con đẹp tuyệt vời đó con.
Cho con mặt ngọc môi son
70. Trông như thể vầng trăng non giữa trời.
Con ơi hãy mến yêu Người !
Dù con chưa biết nói lời tạ ơn”.
Tháng ngày như bóng phù vân
Trôi đi mau chóng mấy lần xuân qua
( CUỘC ĐỜI ĐỨC MARIA
THEO THÁNH KINH VÀ THÁNH TRUYỀN
(Di cảo của linh mục Phanxicô Nguyễn Xuân Văn ).
BÀI ĐỌC THÊM.
LỄ THÁNH DANH ĐỨC MẸ L.m. Phêrô, CMC
I. THÁNH DANH MARIA Thánh Danh Maria theo tiếng Do Thái trong Cựu ước là Myriam, tiếng Aram là Maryam, tiếng Hy Lạp dịch Cựu ước là Mariam, tiếng Hy Lạp dịch Tân ước là Maria, tiếng Anh là Mary, tiếng Pháp là Marie, tiếng Latinh là Maria. Trong Thánh kinh có tám người mang tên như Thánh Danh Đức Mẹ:1. Chị ông Maisen thường gọi là Miriam (Xh 15:20-21; Ds 12:1-10);2. Một phụ nữ con gái của Ezra (1 Sb 4:17); 3. Maria Mađalêna, người phụ nữ được trừ khỏi bảy quỉ (Lc 8:2); 4. Maria chị Lagiarô và em của Martha (Lc 10:38-42); 5. Maria mẹ của Thánh Giacôbê và Gioan (Mc 15:40-47); 6. Maria vợ ông Clopas (Ga 19:25) có lẽ là mẹ của Thánh Giacôbê và Gioan; 7. Maria mẹ của Thánh Marcô tác giả Phúc âm II (Cv 12:12); 8. Maria là một Kitô hữu ở Rôma mà Thánh Phaolô gửi lời chào (Rm 16:6). II. Ý NGHĨA THÁNH DANH MARIA Thánh Danh Maria có những ý nghĩa: 1. Theo Thánh Giêrônimô, Maria tiếng Do Thái có nghĩa là “biển”. Do đó, Thánh Bênađô gọi Đức Mẹ là “Sao biển”. Giáo hội có Thánh thi “Ave Maris Stella”. 2. Cũng theo Thánh Giêrônimô, Maria tiếng Aram là “Marta = Bà Chúa”. Tiếng Latinh là Domina, tiếng Ý là Madona, tiếng Pháp là Notre Dame, tiếng Anh là Our Lady. 3. Maria tiếng Ai Cập là “mari” nghĩa là được yêu, là “mara” nghĩa là phương phi, hợp với vẻ thẩm mỹ của Á Đông là “lộng lẫy diễm lệ”. 4. Maria tiếng Ugarit là “mrym” nghĩa là cao sang, uy nghi, tuyệt vời. 5. Theo nhà Thánh Mẫu học Scheeben, Maria tiếng Do Thái là Miryam biến thành myrrha maris, stilla maris, stella maris. 6. Maria nghĩa hay nhất là “làm sáng tỏ” vì Mẹ là bức gương trong, phản chiếu ánh sáng hằng hữu, là trung gian ánh sáng ơn thánh, là rạng đông và là mỹ nữ lồng bóng mặt trời. 7. Maria có nghĩa Tân Evà đem lại ơn Cứu rỗi, tương phản với Evà đem lại ác hoạ. III. CÁC NHÂN ĐỨC CỦA MẸ MARIA Mẹ Maria có 12 nhân đức, đó là: 1) Ba nhân đức đối thần: Tin, Cậy, Mến. 2) Bốn nhân đức trụ: Khôn ngoan, Công bằng, Đại đảm, Tiết độ. 3) Ba nhân đức theo lời khuyên Phúc âm: Thanh khiết, Khó nghèo, Tuân phục. 4) Hai nhân đức theo gương Chúa Giêsu: Hiền từ và Khiêm nhượng. IV. BẢY LỜI ĐỨC MẸ NÓI TRONG CUỘC ĐỜI CHÚA GIÊSU 1. Mẹ quyết tâm giữ lời khấn trọn đời đồng trinh: “Điều đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1:34). 2. Mẹ sốt sắng nhiệt thành phục vụ Chúa: “Này tôi là tôi tớ Chúa” (Lc 1:38). 3. Mẹ trung thành vâng phục thánh ý Chúa: “Tôi xin vâng như lời thiên sứ truyền” (Lc 1:38). 4. Mẹ hoan hỉ chúc tụng Chúa: Linh hồn ngợi khen sự cao cả của Chúa (Lc 1:46-55). 5. Mẹ tỏ ra mẫu quyền của Mẹ với Chúa Giêsu: “Hỡi Con, sao Con làm như thế? Con thấy Cha con và Mẹ phải đau khổ tìm Con?” (Lc 2:48). 6. Mẹ yêu thương thông cảm những nỗi khó khăn người khác: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2:3). 7. Mẹ vững tin quyền phép Chúa: “Người bảo sao, các anh cứ làm như vậy” (Ga 2:5). V. BẢY NIỀM VUI CỦA MẸ Thánh Tôma Canterbury có thói quen đọc bảy kinh Kính mừng kính bảy niềm vui của Mẹ Maria là: 1. Thiên sứ truyền tin cho Mẹ; 2. Mẹ đi thăm viếng Thánh Êlizabeth; 3. Mẹ hạ sinh Chúa Giêsu tại Bêlem; 4. Các đạo sĩ đến thờ lạy Ấu Chúa Giêsu; 5. Mẹ tìm thấy Chúa Giêsu trong đền thánh; 6. Mẹ biết Chúa Giêsu sống lại; 7. Ngày Mẹ hồn xác lên trời. Nhưng một hôm, Mẹ hiện ra với Thánh Tôma Canterbury mà nói: Hỡi Tôma, lòng sùng kính của con rất đẹp lòng Mẹ, nhưng tại sao con chỉ nghĩ đến những niềm vui Mẹ đã cảm nghiệm ở dưới đất? Vậy con hãy tưởng nhớ những niềm vui của Mẹ ở trên trời nữa. _ Nhưng làm sao mà con biết được? _ Con cũng đọc bảy kinh Kính mừng kính nhớ bảy niềm vui của Mẹ ở trên trời: 1. Vinh quang của Mẹ vượt trên vinh quang của tất cả các Thánh; 2. Ánh sáng của Mẹ chói chang, soi sáng các tầng trời; 3. Mẹ là Nữ Vương Thiên đàng; 4. Lời cầu xin của Mẹ luôn được Chúa nhấp nhận;5. Thiên Chúa ban thưởng những ai sùng kính Mẹ; 6. Mẹ Maria được gần nhất Chúa Ba Ngôi; 7. Niềm vui Thiên đàng của Mẹ cho đến muôn thuở muôn đời. VI. NIÊN SỬ CUỘC ĐỜI ĐỨC MẸ Niên sử cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn dựa theo niên sử cuộc đời Chúa Giêsu Con của Mẹ: Trước Chúa giáng sinh – Năm 23/20 Sinh nhật Đức Mẹ, ái nữ của Thánh Gioakim và Thánh Anna. – Năm 20/17 Đức Mẹ dâng mình vào đền thờ. – Năm 11/8 Đức Mẹ đính hôn với Thánh Giuse (Mt 1:16; Lc 1:27). – Năm 7 Thiên sứ Gabrie truyền tin cho Đức Mẹ (Lc 1:26-38).Đức Mẹ mang thai Chúa Giêsu (Mt 1:18-25). Đức Mẹ đi viếng thăm bà Thánh Êlizabeth (Lc 1:39-56). – Năm 7/6 Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu tại Bêlem (Lc 2:1-9). Đức Mẹ đưa Chúa Giêsu chịu phép cắt bì (Lc 2:21). Đức Mẹ lên đền tịnh tẩy và dâng Con (Lc 2:22-24). Cụ già Simeon nói tiên tri về Chúa Giêsu và Mẹ (Lc 2:25-35). Cụ bà Anna nói tiên tri về Chúa Giêsu (Lc 2:36-38). – Năm 6/4 Ba vua đến thờ lạy Ấu Chúa (Mt 2:1-11). Đức Mẹ và Thánh Giuse đem Con trốn sang Ai Cập (Mt 2:13-14). – Năm 4 (?) Đức Mẹ và Thánh Giuse đem Con trở về Nagiarét (Mt 2:19-23). Sau Chúa giáng sinh – Năm 6 Đức Mẹ và Thánh Giuse tìm thấy Chúa Giêsu trong đền thờ (Lc 2:41-50). Đức Mẹ và Thánh Giuse sống với Chúa Giêsu tại Nagiarét (Lc 2:51). – Năm 27/28 Mẹ với Chúa Giêsu đi dự tiệc cưới Cana (Ga 2:1-11). – Năm 30 Mẹ Maria trong cuộc sống công khai của Chúa Giêsu (Mt 12:46-50; Mc 3:31-35; Lc 8:19-21; Ga 2:12-13). Chúa Giêsu gián tiếp ca ngợi đức tin của Mẹ (Lc 11:27-28). – Năm 30 Mẹ Maria dưới chân thánh giá trên đồi Canvê (Ga 19:25-27). Mẹ Maria và các tông đồ tại nhà Tiệc ly (Cv 1:14). Mẹ Maria lên trời với Chúa Giêsu Con của Mẹ. VII. NHỮNG BIỂU TƯỢNG ĐỨC MẸ 1. Rượu; hương dầu thơm (Dc 1:1-3). 2. Lều trại Kedar; trướng gấm của Salem (Dc 1:5). 3. Mặt trời; vườn nho (Dc 1:6). 4. Cam tùng toả mùi thơm nức (Dc 1:12). 5. Hoa thuỷ tiên cánh đồng Saron; hoa huệ thung lũng sâu (Dc 2:1). 6. Bồ câu nơi kẽ đá (Dc 2:14). 7. Cột khói ngát trầm hương (Dc 3:6). 8. Mắt bồ câu (Dc 4:1). 9. Tháp lầu Đavid (Dc 4:4). 10. Mật ong nhỏ giọt (Dc 4:11). 11. Cột bạch ngọc (Dc 5:15). 12. Đoàn quân dàn trận (Dc 6:10). 13. Rạng đông; mặt trăng; mặt trời (Dc 6:10). 14. Môi miệng Đấng Tối Cao (Hc 24:3). 15. Cột mây (Hc 24:4). 16. Ánh sáng không mờ phai (Hc 29:6). 17. Vòm trời; vực sâu (Hc 24:8). 18. Cây trắc diệp trên núi Hermon (Hc 24:13). 19. Cây cảm lãm trong cánh đồng; cây tiêu huyền bên bờ nước (Hc 24:14). 20. Cây quế và dầu thơm ngát (Hc 24:15). 21. Xạ hương man mác (Hc 24:15). 22. Hòm bia Thiên Chúa (Xh 25: 10-16). 23. Hoa hường mầu nhiệm (Dc 2:1). 24. Vườn địa đường (St 2:8-14). 25. Tàu Noe (St 6:14-16). 26. Đền thờ Salomon (1V 6:1-37). 27. Chiếc thang Giacóp (St 28:12). VIII. BẢY PHỤ NỮ TIỀN ẢNH ĐỨC MẸ Theo các Giáo phụ, những phụ nữ sau đây trong Cựu ước là những tiền ảnh Đức Mẹ: 1. Bà Sara vợ của tổ phụ Abraham, son sẻ và đã cao niên mà được Chúa cho hạ sinh một con trai là Isaac, trưởng tộc một đoàn dân đông đảo (St 21:7-8). Mẹ Maria sinh hạ một cách lạ lùng Chúa Giêsu là trưởng tử một đoàn em đông đúc. 2. Bà Rakel có một sắc đẹp dịu hiền khiến cho Giacóp sẵn lòng làm rể ông Laban mười bốn năm để cưới làm vợ (St 29:17). Sắc đẹp tâm hồn Mẹ Maria khiến Thiên Chúa tuyển chọn Mẹ làm Mẹ Con của Người nhập thể Cứu thế. 3. Bà Miriam là chị ông Maisen. Bà đã cứu em khỏi bàn tay sát hại của vua Pharaon, Ai Cập, đã được đặc ân nói tiên tri, là một trong những phụ nữ đầu tiên qua biển đỏ khô chân, đã cất tiếng ca ngợi cám ơn Chúa (Xh 15:20). Mẹ Maria đã cộng tác với Con Mẹ cứu nhân loại khỏi tội lỗi và tử thần. 4. Bà Deborah, dưới thời quan án của Israel, đã hạ sát Sisơra, đứng cản địch quân Canaan (Tl 4:4). Mẹ Maria đã chiến thắng Satan địch thù của dân thánh Chúa. 5. Bà Giuđitha vừa có sắc đẹp vừa có sức mạnh tinh thần. Bà đã hạ sát Holoferne, hùng tướng của Philitinh, để cứu dân thành Bethulia. Toàn dân ca tụng bà: “Bà là vinh quang của Giuđêa, là niềm vui của Israel, là niềm hãnh diện của dân tộc chúng tôi” (Gđt 15:9). Mẹ Maria đã vinh thắng trên Satan và đạp nát đầu nó, và đem lại vinh dự cho Thiên Chúa, hân hoan cho Thiên Đàng, và niềm hãnh diện cho toàn thể dân Chúa chọn. 6. Bà Esther là hoàng hậu của vua Assuerô nước Ba tư, đã cứu dân Israel khỏi nạn diệt vong (Et 2:17). Mẹ Maria là Nữ Hoàng đã cứu dân thánh Chúa khỏi nạn đoạ trầm. 7. Tân Evà. Bà Evà đã làm cho loài người phải sa đoạ, thì Mẹ Maria là Tân Evà đã làm cho loài người được phục hồi (Thánh Giustinô). IX. NHỮNG TƯỚC HIỆU MẸ MARIA 1. Trạng Sư cùng với Chúa Giêsu là Trạng Sư để bầu chữa cho loài người trước toà Chúa Cha. Tước hiệu này được Giáo hội dùng từ thời Trung cổ trong kinh Lạy Nữ Vương và các văn kiện của Thánh Bênađô. 2. Đấng Đồng Công. Các Đức Giáo hoàng Lêô XIII, Piô X, Piô XI, Piô XII và Công đồng Vatican II đã minh chứng Mẹ Maria đã đặc biệt đồng công cộng tác với Chúa Kitô trong công trình Cứu chuộc loài người. Riêng Đức Piô XI đã trực tiếp gọi Mẹ là Đấng Đồng Công (Coredemptrix). 3. Mẹ rất thánh. Mẹ là Mẹ toàn thể loài người vì Mẹ sinh ra Chúa Kitô là đầu, mà mọi tín hữu là chi thể của Nhiệm Thể Chúa Kitô, nên Giáo hội gọi Maria là Mẹ rất thánh của Chúa và của loài người. 4. Nữ tử Sion. Tiên tri Isaia và Mica gọi thành Giêrusalem là “con gái Sion”. Tiên tri Giêrêmia gọi “con gái Sion” là dân thành Giêrusalem, ám chỉ toàn dân thánh Chúa. Trong sách Khải huyền, đoạn 12, Mẹ Maria được ám chỉ là “con gái Sion” sinh ra một dân tộc mới mà Đầu là Con Trai chiến thắng Satan. 5. Gương mẫu. Công đồng Vatican II gọi Mẹ Maria là gương mẫu tuyệt vời và hiếm có, là mẫu mực của Giáo hội về đức tin, đức ái và hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô (LG, 63). 6. Nữ tỳ của Chúa. Chính Mẹ Maria đã xưng mình là “nữ tỳ” của Chúa khi thiên sứ truyền tin cho Mẹ (x. Lc 1:38), và Mẹ đã tự phát trong Ca Ngợi khen: “Chúa đã đoái nhìn thân phận thấp hèn tôi tớ của Người” (Lc 1:48). 7. Đấng phù hộ các giáo hữu. Đức Piô V thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: “Đức Bà phù hộ các giáo hữu” năm 1571 để cám tạ Mẹ đã giúp đạo binh Công giáo chiến thắng quân Hồi giáo ở vịnh Lepante, và để kỷ niệm Mẹ dẹp tan bè rối Albigensê nhờ kinh Mân côi hồi thế kỷ XII. Năm 1815, Đức Piô VII lập lễ Đức Mẹ phù hộ. Đức Mẹ phù hộ cũng là bổn mạng dòng Salêdiên, của Úc châu và Tân Tây Lan. 8. Đấng Vô nhiễm. Mẹ Maria đã được đặc ân đầu thai vô nhiễm nguyên tội mà Đức Piô IX đã định tín năm 1854. Và Mẹ đã hiện ra tại Lộ Đức năm 1858 với Thánh Bernađetta và xưng mình là “Đấng Vô nhiễm thai”. 9. Đấng Trung gian. Tước hiệu Mẹ trung gian đã được dùng bên Đông phương thế kỷ VI và bên Tây phương thế kỷ IX. Từ thế kỷ XVII tước hiệu này được dùng khắp nơi trong Giáo hội. Mẹ trung gian vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa được đầy ơn đứng giữa Thiên Chúa và loài người; vì Mẹ cộng tác với Chúa Kitô để giao hoà loài người với Thiên Chúa, và vì Mẹ là Đấng ban phát mọi ơn lành cho con cái Mẹ. 10. Mẹ Thiên Chúa. Đầu tiên Thánh Hippolitô đã tuyên đọc Mẹ Maria là “Mẹ Thiên Chúa”. Năm 431 Công đồng Êphêsô tuyên tín Mẹ là “Mẹ Thiên Chúa” để luận án bè rối Nestoriô. Mẹ Maria sinh ra Chúa Giêsu. Mà Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Do đó, Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa. 11. Mẹ Giáo hội. Công đồng Vatican II dạy: Giáo hội Công giáo dâng lên Mẹ Maria tình con thảo như đối với người Mẹ rất dấu yêu (LG, 53). Năm 1964, Đức Phaolô VI tuyên ngôn: Mẹ Maria là “Mẹ của Giáo hội”. Năm 1980, câu “Mẹ Maria là Mẹ Giáo hội” được thêm vào kinh cầu Đức Bà. 12. Mẹ thương xót. Tước hiệu Mẹ thương xót đã có từ thế kỷ III. Nhiều vị Thánh đã kêu cầu Mẹ thương xót. Thánh Đamianô, Thánh Bênađô, và Thánh Anphong kêu cầu Mẹ thương xót bằng kinh Lạy Nữ Vương. Mẹ hiện ra với Thánh Brigitta và nói: “Mẹ là Nữ Vương Thiên đàng, là Mẹ thương xót. Mẹ là niềm vui cho người công chính, là cửa cho tội nhân đến cùng Chúa. Không có người tội lỗi nào mà vô phúc ở ngoài tình thương xót của Mẹ. Không có người nào bị Chúa ruồng bỏ đến nỗi không trở về với Người và được Người thương xót nếu họ kêu xin Mẹ hộ giúp. Mọi người đều gọi Mẹ là Mẹ thương xót. Lòng thương xót của Con Mẹ đối với loài người cũng làm cho Mẹ thương xót. Mẹ cảm thương mọi người và tha thiết cứu giúp các tội nhân”. 13. Nữ Vương hoà bình. Năm 1917, khi thế giới bị Đệ nhất Thế chiến tàn phá, Đức Bênêđictô XV thêm vào kinh cầu Đức Bà câu “Nữ Vương ban sự bình an”. Mẹ khuyên nhủ con cái Mẹ hãy thực thi công bình và bác ái để họ được bình an trong Chúa Kitô. 14. Toà khôn ngoan. Tước hiệu Mẹ là Toà khôn ngoan có từ thời các Thánh Giáo phụ như Thánh Au-gustinô. Mẹ là ngai toà khôn ngoan, là đền thờ Đấng Khôn Ngoan, vì Mẹ hằng suy niệm trong lòng những mầu nhiệm của Chúa Giêsu Con Mẹ (Lc 2:19, 51). 15. Mẹ hằng cứu giúp. Mẹ Maria là Mẹ đầy lòng từ bi thương xót, hằng bênh vực chở che cứu giúp mọi người trong những nỗi gian nan cơ khổ. Từ thế kỷ III, người ta đã kêu cầu Mẹ cứu giúp với kinh “Chúng con chạy đến cùng Mẹ”. Đức Lêô XIII đã giải thích rõ ràng. Và Dòng Chúa Cứu Thế chuyên rao giảng về Đức Mẹ hằng cứu giúp. X. LỊCH SỬ PHỤNG VỤ Giáo hội Tây Ban Nha đi tiên phong trong việc mừng lễ Thánh Danh Maria, và được Toà thánh phê chuẩn năm 1513. Đức Innocentê XI truyền dạy mừng lễ này khắp Giáo hội năm 1683 để cảm tạ Mẹ trợ phù Gioan Sobieski, vua Balan, chiến thắng quân Hồi Thổ Nhĩ Kỳ tại Vienna, và được mừng ngày 12 tháng 9, sau lễ Sinh nhật Đức Mẹ bốn ngày, cũng là ngày chiến thắng Vienna. Lễ Thánh Danh Mẹ chỉ là lễ thường, nên đã bị bãi bỏ năm 1970, nhưng năm 1975 được hồi phục là một lễ Votiva (ngoại lịch). XI. LỜI CÁC THÁNH – Thánh Êphrem: Danh Thánh Maria là chìa khoá mở cửa Thiên đàng. – Thánh Ambrôsiô: Lạy Maria, Thánh Danh Mẹ là một thuốc dầu quí giá toả hương ơn Thánh Chúa. Xin Mẹ cho thuốc dầu Cứu rỗi vào tận thẳm cung trong linh hồn chúng con. – Thánh Phêrô Kim ngôn: Danh Thánh Maria biểu lộ đức Trinh khiết. – Thánh Isiđôrô Sévilla: Maria có nghĩa là Ánh sáng, vì bởi Mẹ sinh ra Chúa Kitô là Ánh sáng thế gian. – Thánh Germanô: Lạy Mẹ Thiên Chúa, ước chi Thánh Danh Mẹ là tiếng sau cùng phát ra từ môi miệng con. – Như hơi thở không những là một dấu hiệu, mà còn là căn do của sự sống, Danh Thánh Maria luôn trên môi miệng những tôi tớ Thiên Chúa, chứng tỏ rằng họ thực sự sống động, đồng thời phát sinh và gìn giữ sự sống của họ và cứu giúp họ mọi lúc. – Thánh Mêthôđiô: Lạy Mẹ Thiên Chúa, Thánh Danh Mẹ tràn đầy ơn thánh và phúc lành của Thiên Chúa. – Thánh Antôn: Danh Thánh Maria là niềm vui trong cõi lòng, là mật ngọt trong miệng, là âm điệu vui tai của những tôi tớ Mẹ. – Thánh Bônaventura: Lạy Mẹ Maria, Thánh Danh Mẹ huy hoàng tuyệt diệu, vì những người kêu tên Mẹ lúc chết không phải sợ mọi quyền lực của hoả ngục. Người ta không sợ đạo binh thù địch hùng mạnh như những quyền lực hoả ngục sợ Danh Thánh Mẹ và sự che chở của Mẹ. – Như sáp tan chảy trước lửa, ma quỉ mất ngụy lực đối với những linh hồn tưởng nhớ và sốt sắng kêu cầu Thánh Danh Mẹ. – Danh Thánh này ngọt ngào rất xứng với một Trinh Nữ thánh thiện dịu dàng, vì Maria có nghĩa là Biển đắng, là Sao biển, là Đấng sáng soi. Maria được hiểu là Bà Chúa. Maria là Biển đắng cho ma quỉ, là Sao biển cho người đời, là Đấng sáng soi cho các thiên thần, là Bà Chúa mọi thụ tạo. – Thánh Tôma: Maria có nghĩa là Sao biển, vì như thuỷ thủ được sao biển hướng dẫn vào hải cảng, các Kitô hữu tới vinh quang nhờ sự cầu bầu Hiền Mẫu của Mẹ Maria. – Chân phúc Henri Susô, C.P.: Khi đọc tên Mẹ Maria, tôi cảm thấy bừng lên tình mến và niềm vui đến nỗi trong nước mắt sung sướng tôi đọc tên cao đẹp này, tôi cảm thấy tim tôi như thoát ra khỏi ngực, vì tên dịu ngọt này giống như tảng mật ong tan ra trong chiều sâu thẳng của linh hồn tôi. – Thánh Bênađinô: Lạy Đức Nữ Trinh vinh hiển, xin Mẹ cho con sức mạnh, tài năng và lợi khẩu để con loan truyền vinh quang của Thánh Danh Mẹ cho giáo dân và con cái của Mẹ. – Thánh Antôninô: Thánh Danh Maria là niềm vui cho tim con, là mật ong cho môi miệng con, là nhạc điệu cho tai con. – Thánh Tôma Kempi: Quỉ dữ khiếp sợ Nữ Vương thiên đàng đến độ khi nghe tên Mẹ, chúng trốn chạy như bị lửa hồng. – Thánh Canisiô: Sau tên rất thánh và rất đáng kính của Chúa Giêsu, không có tên nào vinh hiển và quyền năng hơn tên Mẹ Maria. Khi nói đến tên này, các thiên thần vui mừng, các quỉ dữ run giùng. Kêu xin tên này, các tội nhân được ơn phúc và ơn tha thứ. – Thánh Lêonarđô Fort Maurice: Thường tên ngọt ngào Mẹ Maria đọc trên môi, bạn phải hình dung một kỳ công của quyền năng Thiên Chúa, rất tuyệt hảo và tuyệt vời đến nỗi cánh tay Đấng Toàn năng không thể tác tạo sự gì hoàn hảo hơn trong mẫu mực một thụ tạo tinh tuyền. |
ĐÀ NẴNG NGÀY 12 THÁNG 9 NĂM 2013
NHƯ RẠNG ĐÔNG.
KỶ NIỆM SINH NHẬT LẦN THỨ 2029
ĐỨC TRINH NỮ MARIA, MẸ ĐẤNG CỨU THẾ
8 THÁNG 9 NĂM 2013.
Mỗi năm vào ngày 8 tháng 9, Giáo hội kính nhớ Sinh nhật Mẹ Maria. Lịch sử trần gian là một chuỗi liên tiếp những sự kiện, những biến cố, những cuộc chiến tranh hay thời gian ngưng tiếng súng tạm gọi là hòa bình… may rủi, vật vờ, hổn loạn, quay cuồng lung tung, không định hướng… Lịch sử nhân loại theo các nhìn của con cái Chúa là lịch sử Cứu độ, có một điểm phát xuất là vụ nổ Big Bang nhưng sẽ quy về một điểm hẹn “một chấm Omega” theo Teilhard de Chardin nhà khoa học hay quy tụ về Chúa Kitô theo Tân Ước để tất cả tiến về Trời Mới Đất Mới, đến Tình Yêu Hạnh phúc Vĩnh hằng. Trong mớ bòng bong lịch sử đó, con người là yếu tố quan trọng. Một Đức Kitô Nhập thể xuất hiện có thể gọi xoay hẳn trục địa cầu, chuyển nhân loại đi về một đích đến, một tương lai lạc quan và hạnh phúc. Nhưng sẽ không có Đức Giêsu Kitô nếu trước đó không có việc chào đời của cô gái mang tên Maria… Mẹ như mặt trăng, Mẹ như cây trắc bá, Mẹ như hoa huệ, Mẹ là đền vàng…. chúng ta có hàng ngàn mỹ từ so sánh Mẹ vẻ đẹp hình thể và nhân đức của Mẹ. Hôm nay ngày kỷ niệm Sinh nhật Mẹ Maria, chúng ta hãy ví Mẹ như Rạng đông báo tin Apollo, Thần Mặt Trời công chính, bất bại Sol Invictus, là Đức Giêsu Cứu Thế sắp xuất hiện. Mẹ là đám mây phía trời Tây đem cơn mưa giải hạn 3 năm 6 tháng thời tiên tri Êlia.
Cha bảo trợ của tôi, linh mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Xuân Văn, nhân lễ Sinh nhật 2000 năm của Mẹ Maria năm 1984, đã viết mấy bài thơ dâng Mẹ. Xin trích dẫn vài câu.
MẸ CHÀO ĐỜI
1. Mẹ chào đời như vầng hồng ló dạng
Vừa diễm kiều vừa lộng lẫy cao sang
Trên đầu Mẹ mười hai ngôi sao sáng
Dứơi chân Mẹ lấp lánh nụ trăng vàng.
Con mừng Mẹ bằng hoa thắm muôn phương
Bằng lời ca trong khúc nhạc Thiên đường…
….Mẹ chào đời cả vũ trụ vui mừng
Trời đổ hương thơm, đất trào súôi ngọt
Vườn Jesse cây lành sinh trái tốt
Núi Sion in gót ngọc tinh tuyền…
…Thắp nến đốt hương mừng Thọ Mẹ
Hương tàn nến lụn, ý chưa vơi !….
( Tuy Hòa 1984)
XEM :
http://antontruongthang.com/van-thao-linh-m%E1%BB%A5c-thi-si-f-x-nguy%E1%BB%85n-xuan-van/chuc-mung-sinh-nhat-2026-me-maria-theo-linh-muc-phanxico-xavie-nguyen-xuan-van-1922-2002/ Đức Gioan Phaolô II: “Lạy Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, sự ra đời của Mẹ loan báo niềm vui cho toàn thế giới”. Hay như kinh Salve Regina (Kính chào Nữ Vương) “Mẹ làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy” . Vita, dulcedo et spes nostra, salve. Chào sự sống, dỊu ngọt và hy vọng của chúng con.
ĐÀ NẴNG 7 THÁNG 9 NĂM 2013. ANTÔN NGUYỄN TRƯỜNG THĂNG
THĂNG … LONG.
Thăng thì cũng thường.
Long cốt chỉ hù dọa, chứ không đáng sợ.
Nhưng Thăng Long là lịch sử, là hồn thiêng sông núi.
Nói đến Thăng Long là chạm đến những tâm tình sâu kín nhất của mỗi người dân từ Bắc chí Nam đến những người Việt xa xứ.
Đấy là nói đến Thăng Long, Hà Nội.
…..
Thăng, Long nói đây, chỉ là tên hai con người có ở lúc gần, lúc xa mà thôi.
Vài hôm nữa cha Long chính thức được thụ phong Giám mục.
Viết những dòng nầy Thăng không cố ý thấy “sang bắt quàng làm họ” đâu.
Nhưng chỉ muốn nhắc lại một số kỷ niệm của hai con người, nguồn gốc khác nhau nhưng lại gặp nhau vào những ngã tư, ngã ba cuộc sống.
Cha sinh ngày 25 – 1- 1953, mùa xuân, tại Hà Nội.
Tôi một tháng sau nhưng trước cha 11 năm 25- 2- 1942.
Chúng tôi có chung một cha sở cho đi tu. Đức cha Giuse Lê Văn Ấn. Năm cha 2 tuổi, 1954, ngài là cha sở họ An Ngãi, ký giấy giới thiệu tôi cho linh mục Joseph Clause Hồng Mep, Giám đốc Chủng viện Nha Trang.
Năm 1965, ngài nhận cậu Long, học trò “ma soeur” trường Thánh Tâm làm con và cho vào Tiểu chủng viện Thánh Gioan Đà Nẵng. Năm 1965, thầy Thăng triết 2 Giáo Hoàng Học viện Đà Lạt, nhận lệnh giúp xứ mùa hè, đến Sơn Trà, tham gia cuộn thi tuyển khóa 1. Tiểu chủng viện An Thượng đang được xây dựng. Cả mấy trăm chú nhóc, làm sao biết chú Long là ai.
Hai năm sau, niên khóa 1967-68, Mậu Thân khói lửa, tôi chính thức đi giúp xứ Chủng viện Gioan với tư cách Giám thị, cậu Anphong Long, lên lớp Đệ ngũ, vẫn còn rất nhỏ con, ngoan hiền.
Nhà thờ Phú Cam sau tết Mậu Thân, rồi mọi sự sẽ qua, đừng bao giờ thất vọng.
Sau đó, hai người hai ngã.
Năm 1975, được bổ nhiệm làm cha sở Trà Kiệu, vài tháng sau, một bộ phận Chủng sinh Đại chủng viện Hòa bình, Hòa Khánh « thiên đô » về Trà Kiệu. Thầy Long chữ đẹp, chăm chỉ được chiếu cố tổng kết đất ruộng Trà Kiệu để làm tờ « hiến điền » tháng 10- 1975. Một trăm mẫu đất và ruộng, tức 100 hecta trong ba huyện. Sau nầy, hai người lại đụng chuyện miếng đất nhỏ Thạnh Quang. Tưởng cha chấm dứt «hoạn lộ » từ đây may mà được gặp thời xét lại. Học chưa được mấy chữ ngoài làm rẩy, làm ruộng, vừa thu hoạch một mùa lúa… lại phải khăn gói lên đường.
Mùa hè 1984, Đức cha Phêrô Maria ghi tên thầy Hữu Long về giúp ngài tại Trà Kiệu nhưng Văn Long được chọn. Năm 1985, kỷ niệm 20 năm chủng viện thánh Gioan, Đức cha than thở « 20 năm bao công sức đổ vào chủng viện mà không được một linh mục nào ». Linh mục Thăng giật mình, thấy tội nghiệp Đức cha quá và nhớ lại câu ngài thường nhắc « chủng viện là con ngươi trong mắt giám mục giáo phận ». Mười ngày trước khi nhắm mắt 1988, tân linh mục Giuse Trí Dũng mới được thụ phong…nhưng xuất thân từ chủng viện Làng Sông, Qui Nhơn. Chắc khi về trời, ngài «khiếu nại » ghê lắm nên tính cho đến nay có gần 30 vị xuất thân từ lò ươm giống nầy trong đó có hai « vít vồ ».
Ngày 27 tháng 12 năm 1989, cha Thăng được chuyển về nhà thờ Chính tòa Đà Nẵng và sau đó thầy Long được điều đến giúp. Giỏi nhạc giúp khá nhiều cho giỏi vẽ ! Một năm sau ngày 29 tháng 12 năm 1990, tân linh mục Anphong tiến lên bàn thánh.
Đến mùa hè 1994, Đức cha Phanxicô Nguyễn Quang Sách cho gọi hai cha Thăng, Long lại cho biết Hội thừa sai Paris cấp 2 học bổng cho Giáo phận Đà Nẵng.
– Hai cha lo thủ tục giấy tờ nhập học tại Institut Catholique de Paris niên khóa nầy.
– Cha – ngài chỉ linh mục Thăng- học Giáo luật
Không đắn đo, tôi chỉ cha Long.
– Xin Đức cha cho cha Long học Giáo luật. Phần con xin học Giáo sử.
Phải chăng là định mệnh, là ý Chúa đã dành cho cha.
Ba năm tại Thủ đô ánh sáng, các thành phố Pháp hay Rôma, nhiều kỷ niệm đẹp.
Issy les Moulineaux, Paris 1994, cha Thi, cha Duyệt về với Chúa, hai anh hưu non, còn mình cha đó.
Luôn là vui, kể cả “Au secours!” nữa đêm về sáng.
Rồi thỉnh thoảng chúng ta lại gặp nhau cho đến năm 2011, cha làm Giám đốc Đại chủng viện Huế, cha Thăng lo dạy Lịch sử Truyền giáo tại Việt Nam.
Thăng, Long.
Hai cuộc đời khi xa lúc gần.
Bây giờ cha sắp làm Giám mục phụ tá Hưng Hoá.
Một giáo phận mênh mông, hoang sơ, huyền bí, thơ mộng … như mình tưởng tượng qua nhạc phẩm Nương Chiều, Suối mơ…
Khẩu hiệu của hai bố con: Giuse Lê Văn Ấn và Anphong Nguyễn Hữu Long nghe “ghê” quá.
Một người thì “Occide et manduca” ( Giết mà ăn)
Một người « Mang vào mình mùi chiên . »
Mong cha cứ gần với chiên chứ đừng nở giết nhé.
Mùi chiên sống khó ngửi nhưng « chiên …lên mâm » kiểu « gigot d’agneau » Tây…thơm lắm.
Vẫn biết có Chúa Thánh Thần ở với cha, nhưng xin đừng lạm dụng tên Chúa Thánh Thần trong những việc sai lỗi của…mình!
Chúc cha thành công trong sứ vụ.
Được mọi người:
Vâng Phục.
Kính Phục.
Chứ đừng Kinh…mà Vâng…mà Phục!
Xin cha và mọi người thứ tha nếu có gì không phải.
Lm Antôn Nguyễn Trường Thăng.
ĐÀ NẴNG 2 THÁNG 9 NĂM 2013.
Đám chiên con nầy..là hy vọng mai ngày Giáo hội Tây Bắc.
Trên đường về thôn.
Bóng chiều đã ngã, dặm về còn xa.
SƠN TÂY, NGÀY TẤN PHONG 6/9/2013
NHÀ THỜ CHÍNH TÒA ĐÀ NẴNG NGÀY VỀ 9/9/2013
LỄ THƯỢNG THỌ 90 NĂM
KIM CƯƠNG LINH MỤC (60 NĂM)
CHA PHAOLÔ TRƯƠNG ĐẮC CẦN.
GIÁO PHẬN QUI NHƠN.
THEO BẢN TIN GIÁO PHẬN QUI NHƠN.
Trong “Bản Thông Tin Địa phận Qui Nhơn”, Số 8, năm 1958, có bài nói lên ý nghĩa của các ngày lễ kỷ niệm linh mục như sau:
“Tại các nước Công giáo Âu Châu, những cặp phu phụ nhờ ơn Trên được song toàn, cũng đặt ra tập quán mừng lễ Cưới Bạc (25 năm), Cưới Vàng (50 năm), và Cưới Kim Cương (60 năm). Sở dĩ đặt tên cho mỗi cuộc lễ như thế, là để biểu tượng cái hạnh phúc quý báu như bạc như vàng, chứ nói cho đúng ra, là họ làm lễ kỷ niệm ngày hôn nhân, để ôn lại cái ngày vui tươi phận đẹp duyên may của đôi lứa, và cảm tạ Đấng đã ban ơn giáng phúc cho gia đình mình trong những khoảng thời gian lâu dài như thế… Từ lâu, mỹ tục đó đã lan vào trong tu giới. Các vị thụ phong thánh chức, hoặc tuyên khấn tu dòng, cũng đã làm những cuộc lễ hôn nhân huyền nhiệm, giữa các ngài với Thiên tử Giêsu, mà cuộc hôn nhân này còn cao trọng và hạnh phúc gấp ngàn vạn lần những cuộc hôn nhân kia.
Tu là cõi phúc, tình là dây oan.
Vì thế, chúng ta thấy các vị giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ, cũng mừng ngày kỷ niệm thành hôn thiêng liêng của mình khi được 25 năm, 50 năm, và 60 năm, như các bậc phu phụ. Mục đích là gì? Nếu không phải là để cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho về dĩ vãng, và cầu xin Ngài sẽ phù trì bang hộ về tương lai?
« Lấy gì báo đáp muôn ân Chúa đà đổ xuống lòng con dẫy đầy Chém vàng nâng lấy hai tay Dâng lên ca ngợi Danh Ngài hiển vinh. » (Tv 115, 12) Đã lâu lắm rồi, hàng linh mục Giáo phận Qui Nhơn mới có cha mừng kỷ niệm linh mục, không phải 25, 50 mà là 60 năm. Kể từ khi cha Antôn Nguyễn Toàn Chân mừng kỷ niệm Ngọc Khánh Linh Mục vào năm 1961, mãi đến 52 năm sau, vào ngày Chúa Nhật 04/8/2013, cha Phaolô Trương Đắc Cần đã ghi thêm tên vào danh sách các bậc đại tiền bối thượng thọ với thánh lễ tạ ơn kỷ niệm 60 năm linh mục (3/8/1953-2013) và 90 năm cuộc đời (18/11/1923-2013) tại nhà thờ Xuân Quang, do cha sở Xuân Quang Phaolô Lê Văn Nhơn tổ chức. Cha Phaolô là cậu ruột của cha Phaolô Nhơn. Thánh lễ đồng tế vào lúc 10g, với khoảng hơn 20 linh mục trong Giáo phận, do Cha Tổng Đại Diện chủ tế, với sự tham dự của giáo dân Xuân Quang và đông đảo thân nhân của cha Phaolô từ các nơi về mừng lễ. Mở đầu thánh lễ, cha Tổng Đại Diện nói lên ý nghĩa của thánh lễ Tạ Ơn đặc biệt hôm nay: «Chức linh mục ban thánh vụ cho phàm nhân… Cha Phaolô đã sống thiên chức đó tròn 60 năm mà vẫn mang thân phận nhân trần giữa trần thế. Điều cha Phaolô muốn nói lên trong thánh lễ hôm nay là cảm tạ vì được ân ban, tạ tội vì còn thiếu sót. Trong tri ân, kính trọng, quý mến và hiệp thông, cộng đoàn chúng ta cùng ngài dâng Thánh Lễ, xin Chúa đoái thương nhậm lời ngài trong ân thánh mà Chúa đã thương chọn.”
Trong phần giảng lễ, cha Gioan Võ Đình Đệ đã chia sẻ về thiên chức linh mục như một ân ban nhiệm mầu. Trong một khía cạnh nào đó, con người và sứ vụ linh mục là một sự nhập nhằng giữa phàm trần và thánh thiêng, giữa những mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa bản thân yếu hèn với sự cao cả của sứ mệnh, giữa sức mạnh và yếu đuối, giữa cái riêng và cái chung. “Sau 60 năm, cha Phaolô thi hành sứ vụ linh mục trong con người như thế đó. Nay trí nhớ cha Phaolô đã chạm tới ranh giới của lúc nhớ lúc quên, cũng không còn nghe được rõ ràng những âm thanh của loài thụ tạo. Cha chấp nhận những điều này như một của lễ hy sinh, một của lễ được tìm thấy ngay trong chính thân phận người của mình. Quên tất cả để chỉ nhớ điều cần duy nhất, nhớ một mình Chúa thôi. Không nghe âm thanh loài thụ tạo để chỉ còn lắng nghe tiếng thì thầm của Chúa mỗi ngày, để cuộc sống linh mục hy tế được tiếp diễn một cách sống động thay vì biến nó thành bảo tàng. Những ngày gần đây cha Phaolô cũng cho đi những sách vở, những vật dụng thường dùng hằng ngày, như thể cha muốn cuộc sống linh mục của mình mộc mạc như hạt phù sa, vừa vun đắp màu mỡ cho đất mẹ vừa mạnh mẽ theo sông ra biển đương đầu với sóng to gió lớn. Hiện cha buông hết những việc thường ngày trên bàn vi tính và phía sau vườn để dành mọi thời khắc cho việc cầu nguyện và chay tịnh hầu thánh hóa bản thân … Chúng ta vui mừng tạ ơn Chúa vì hồng ân 60 năm linh mục Chúa đã ban cho cha Phaolô, đồng thời cũng gia tăng lời cầu xin tha thiết cho cha Phaolô cũng như cho các linh mục của Chúa sống trọn vẹn thiên chức linh mục đã nhận …”
60 năm phục vụ, từng đi qua khắp nhiều miền của giáo phận từ Nha Trang, Quảng Nam, Phú Yên, Qui Nhơn, cha đã để lại một hình ảnh rất thân thương trong lòng mọi người, nhất là với các học trò của cha: « 90 tuổi thượng kim, nhớ cha giáo có đôi kính dày, màu đỏ, giọng nói thâm trầm, giảng toán hình học rất chu đáo, ôn tồn, không bao giờ lớn tiếng với học trò, nụ cười duyên dáng, đời sống thâm trầm, đức độ và khoan thai», tất cả như là một hồi ức đẹp nhớ về cha: một người thầy đáng yêu đáng kính!
“Khi chúng ta già đi, sắc đẹp ẩn vào bên trong” (Ralph Waldo Emerson), điều này rất đúng với cha Phaolô bởi vì sắc hồng hào của màu da đã dần nhợt nhạt nhưng tâm hồn cha vẫn còn dễ ghi nhận một sắc thắm đỏ lòng yêu mến Chúa để cho dù trí nhớ có thể bật tắt vô chừng nhưng có một điều không bao giờ quên và dường như được “mặc định” trong tâm trí cha là: “Xin Chúa cho chúng ta được yêu mến Chúa hết lòng, ngày một thêm nhiệt thành phục vụ Hội Thánh và trung thành với Chúa mãi đến cùng.” Lời nói cuối cùng của cha trong thánh lễ chỉ có thế, nhưng đó là chương trình hành động cho cả cuộc đời cha: 60 năm linh mục, 90 năm cuộc đời!
Cha Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh kể lại rằng rất nhiều lần đã nghe thấy tiếng cha Phaolô bật khóc khi dâng Thánh Lễ. Có lẽ đó là lý do và là nguồn cảm hứng cho bài thơ “Giọt Lệ Thầm” mà cha đã sáng tác và đọc lên trong bữa tiệc mừng sau thánh lễ Tạ Ơn:
Xin Ngài hãy thay con, lạy Chúa, Mà đền ơn đáp nghĩa cho đời. Những âm thầm ấy, Chúa ơi ! Xin Ngài lấy sách trên trời mà ghi. Con muốn hứng vào ly rượu thánh Giọt lệ đời lóng lánh châu sa ; Bảo rằng ! “Này chén Máu Ta, Tức là Máu Chúa đó mà, Chúa ơi !” Xin hãy nhận lấy lời con nguyện, Mà ban ơn thánh hiến cho đời. Những âm thầm ấy, Chúa ơi, Mai sau khởi sắc chói ngời vinh quang.
CHA GIÁO PHAOLÔ TRƯƠNG ĐẮC CẦN
VÀ LỚP ĐỆ TỨ NIÊN KHÓA 1959 – 1960
TẠI CHỦNG VIỆN LÀNG SÔNG, TUY PHƯỚC, QUI NHƠN.
CHÚ THĂNG NGỐ NGỐ THỨ 2 BÊN PHẢI CHA.
CHA SỞ PHAOLÔ TRƯƠNG ĐẮC CẦN VÀ CÁC EM RƯỚC LỄ LẦN ĐẦU
GIÁO XỨ HỘI AN 1971.
NẮM 2006, LINH MỤC ANTÔN CŨNG VỀ LÀM VIỆC MỤC VỤ TẠI GIÁO XỨ NẦY.
AD MULTOS ANNOS! PATER CARISSIME!
CÁC BÀI VIẾT THÁNG 08- 2013 CHUYỂN VỀ MỤC “TỰA THOÁNG MÂY BAY”. THEO ĐỊA CHỈ:
http://antontruongthang.com/t%E1%BB%B1a-thoang-may-bay/thang-8-nam-2013-sai-gon-banmethuot-pleiku-kontum-qui-nhon-danang/
MÃI MÃI LÀ HIẾN LỄ BAN ĐẦU.
TRÀ KIÊU SÁNG 24 THÁNG 8 NĂM 2013HAI NGƯỜI CON GIÁO XỨ TRÀ KIỆU :
NỮ TU MICHEL 65 NĂM , NỮ TU ELIZABETH THIÊN VÂN 25 NĂM KHẤN DÒNG.
CON XIN LÀM HY LỄ…TIẾN DÂNG TRÊN BÀN THỜ.
BỐN TRAI, HAI GÁI ! VƯỢT CHỈ TIÊU…. MÀ KHÔNG BỊ PHẠT.
ĐÀ NẴNG CHIỀU 24 THÁNG 8 NĂM 2013.
ĐÀ NẴNG…NGÀY VỀ.
ĐÀ NẴNG THÂN YÊU … NƠI ĐƯỢC CHÔN NHAU, CẮT RỐN.
HỘI AN…HEO RỪNG VÀ VỊT SINH TRƯỞNG TẠI VƯỜN NẦY, VẪN NHỞN NHƠ.
NHÀ …RƯỜNG …CÂY DUỐI… CÀNG NGÀY CÀNG HOÀN THIỆN HƠN.
THÁNG 7 NĂM 2012, EM 20 KÝ, TỪ TRẠI GIỐNG KIỂM LÂM , DUY XUYÊN VỀ …NAY EM NẶNG CẢ TẠ…VÀ LÀ MẸ CỦA 11 CON.
CUỘC GIAO DUYÊN ĐẤT TRỜI.
TIÊN KHẤN, VĨNH KHẤN , KỶ NIỆM 25, 50, 65 NĂM KHẤN
DÓNG MẾN THÁNH GIÁ QUI NHƠN.
VỀ MIỀN DUYÊN HẢI QUI NHƠN.
THỨ TƯ 21 THÁNG 8 NĂM 2013
HẠ SƠN.
THỦ PHỦ LÀNG HỒ KONTUM….
THỨ 2 19 – 8 – 2013
CHUYẾN ĐI MÙA HÉ 1971.
NHÀ RÔNG KON RƠ BĂNG.
THẦN CHIẾN TRANH ĐANG ĐI QUA…AI CÒN VÀ AI MẤT.
THÀNH PHỐ KONTUM HIỆN ĐẠI…NHƯNG TÔI LẠI THÍCH CON ĐƯỜNG CÂY CAO BÓNG CẢ NẦY.
HẠNH PHÚC KHI ÔM LẠI GỐC CÂY GỎ LỊCH SỬ. 200, 300 NĂM.
THIÊN ĐƯỜNG XƯA ĐÃ MẤT.
CÁC EM ĐÂU CÓ HẠNH PHÚC VÌ DA TẨY TRẮNG…VÌ QUẦN ÁO THỜI TRANG.
CÓ TRÂU ĐÀN CŨNG KHÔNG CÓ NHỮNG CHÓE CỔ…
HAY NHỮNG CHIẾC NÓN GIÀ LÀNG NẦY….!!
THƯA ĐỨC CHA, HUẤN QUYỀN HỘI NHẬP VĂN HÓA
Ở TÂY NGUYÊN ĐÃ ĐẾN ĐÂU? CON RẤT HI VỌNG Ở ĐOÀN CON CHÚA GIÁO PHẬN KONTUM TRƯỚC KHI QUÁ TRỄ.
LẠY MẸ CÁC DÂN TỘC. XIN CẦU CHO CHÚNG CON.
RỜI GIA LAI…ĐI LÀNG HỒ.
18 – 8- 2013
MẸ XƠ LÊN RẨY… CHA ĐI LÀNG HỒ (KONTUM)
BIỂN HỒ…CỦA GIA LAI.
LẠI CA BÀI…ĐỜI TÔI CÔ ĐƠN!
KIA RỒI…KONTUM.
NHỮNG NGƯỜI BẠN ĐẦU TIÊN.
XỨ TÂN ĐIỀN ĐỐI DIỆN VỚI NHÀ TÙ KONTUM XƯA.
THẤY TRE TRÚC ..LÀ MÊ.
THÁNH ĐƯỜNG PHƯƠNG HÒA.
GIÁO XỨ JƠ RAI PLEI CHUET.
VÀ VÀI ĐỊA ĐIỂM QUANH PLEIKU.
17 – 8 -2013
HẠNH PHÚC VỚI KHUNG TRỜI BAO LA.
HỘI NHẬP VĂN HÓA …CÂY NÊU VÀ MÁI NHÀ RÔNG.
THĂM LỀU MẸ MARIA
CHÀO CON ĐẾN THĂM. MẸ ĐÂY!
VỚI CHA TRÍ.
VỚI CHA ADEN, VỊ LINH MỤC JƠRAI TIÊN KHỞI.
CHA ADEN ĐANG VẬT LỘN VỚI CÁC VĂN BẢN DỊCH
SÁCH TIÊN TRI GIÊRÊMIA SANG TIẾNG DÂN TỘC MÌNH.
CÔ BẾP RAHLAN H’SƯL VUI TÍNH CHO ĂN NGON TRƯA NAY.
CỘNG ĐỒNG PHAN SINH TRONG XÓ NÚI…NHƯNG CÓ CHÚA Ở CÙNG.
CÓ MẸ CÙNG ĐỒNG HÀNH.
VIẾNG MỘ CHỊ ANÊ NGUYỄN THỊ SỰ (1946-2002) CHẾT TRONG MỘT TAI NẠN GIAO THÔNG. CHỊ ĐÃ TỪNG PHỤC VỤ TẠI GX TRÀ KIỆU.
XIN CHỊ PHÙ HỘ CHO NHỮNG NGƯỜI TRẺ THEO DẤU CHÂN YÊU THƯƠNG, HY SINH VÀ PHỤC VỤ CỦA CHỊ.
KHU DU LỊCH VẮNG KHÁCH.
MỘT NGÀY PHỐ NÚI PLEIKU.
16 – 8- 2013.
NHÀ THỜ THĂNG THIÊN.
NHỮNG CÂY THÔNG CÒN SÓT LẠI CỦA PLEIKU NGÀY XƯA.
NHÀ THỜ GX ĐỨC AN.
NHÀ THỜ GX THÁNH TÂM.
GẶP ĐỨC CHA MICAE ĐANG VI HÀNH VÙNG NẤY.
CÁC ĐỘNG ĐỒNG MẾN THÁNH GIÁ QUY NHƠN.
VỚI CHỊ LORETTE ĐỨC , CHỊ CỦA 4 EM LINH MỤC. XƯA CÙNG LÀM VIỆC TẠI TRÀ KIỆU.
VỚI CÁC CỘNG ĐỒNG NỮ TU PHAOLÔ ĐÀ NẴNG CÓ MẶT TẠI TÂY NGUYÊN 1957. PLEIKU 1962.
ĐẸP THAY NHỮNG BƯỚC CHÂN CHỨNG NHÂN TRÊN CAO NGUYÊN TRƯỜNG SƠN.
VŨ VÂN KIỀM TỎA…PLEI CHUET!
15 – 8 -2013
VỚI CÁC EM NỘI TRÚ NHỎ TUỔI CÁC DÂN TỘC TÂY NGUYÊN SAU THÁNH LỄ MẸ HỒN XÁC VỀ TRỜI.
VÌ SAO CÁC EM PHẢI KHỔ ?
NẤM …BÁNH MỲ !
ĐỒN ĐIỀN CÀ PHÊ PLEI CHUET.
CHẠC SÀNH ƠI…LẤU LẮM MỚI GẶP LẠI.
RỜI BAN MÊ ĐI PLEI…CHIM.
14 – 8 -2013.
QUYÊN QUYÊN…QUÁN ĂN BAN MÊ…CÓ MÓN CƠM HẾN …NÚI. RẤT LẠ!
RƯỢU TRÁI NHÀU…RỪNG YORDON.
NG. VƯỢT QUA CƠN BỆNH…MẤT 6 THÁNG ĐỂ HOÀN THÀNH TÁC PHẨM TRANH LEN.
Từ Hà lan trở lại Ban Mê…Tạm biệt những người thân. Gia đình H.+Ng., L+Th., Th.+ Q. Những người từ giã quê hương An Ngãi sau 1975 và rất thành đạt tại vùng đất mới.
Chuyến xe…bão táp ! Bão rớt khiến mưa từng chặp ! Liên tục « ăn năn tội » vì bác tài đua tốc độ để tranh giành khách ! Đường xuống cấp, nhiều phương tiện giao thông, kể cả thanh niên chặn đầu xe đòi hành hung tài xế, đòi đập bể kiếng xe, hăm dọa sẽ ghi nhớ số xe nầy…vì họ chạy lấn ra đường bị nước mưa ổ gà tạt trúng. Ngồi hai xe trong một buổi sáng mà nghe không biết bao chuyện…cay đắng mùi đời như hai ông ngồi băng sau điều tra tên nào chặt phăng trên 150 gốc tiêu cở cổ tay… suy đoán tên nầy, kẻ nọ và tuyên « án » nó sẽ bị tan gia bại sản hay sẽ tha hồ bóc lịch hoặc sẽ áy náy lương tâm suốt đời.
Về đến thành phố « núi thật cao » Pleiku trong cơm mưa mù mịt ! Qua đây nhiều lần nhưng chưa dừng lại quá 15 phút. Chuyến nầy phải dừng lại vài hôm.
BANMETHUOT…HOÀNG TRIỀU CƯƠNG THỔ.
BMT 13 – 8 -20134
CHUẨN BỊ KIM KHÁNH.
KIM KHÁNH LINH MỤC ANTÔN VŨ THANH LỊCH 13-8-1963- 2013
CHÂN DUNG LINH MỤC
THEO CÔNG ĐỒNG VATICAN II.
Lm. Aug. Hoàng đức Toàn Bmt.
“Vos autem dixi amícos,… Thầy đã gọi các anh là bạn,” (Ga 15, 14-15)
1. Có một giáo dân trẻ nói với tôi: “Sau mỗi lần tham dự lễ truyền chức, lễ tạ ơn của linh mục, lễ ngân khánh, kim khánh của linh mục vv. tôi hiểu biết thêm chút ít về chức linh mục, về đời sống của linh mục”. Không rõ đó có phải là suy nghĩ phổ biến của nhiều người hay không, nhưng dù sao, tôi cũng muốn nhân dịp Mừng Kim Khánh Linh Mục của cha Antôn hôm nay để trình bày trước quí vị, vài nét chấm phá về bức chân dung linh mục, mà Công đồng Vatican II đã phác họa, tuy cách đây đã 48 năm, gần nửa thế kỳ rồi (1965), nhưng Giáo hội ngày nay vẫn đang cố công để thể hiện trên cả thế giới.
2. Trước tiên, theo Vatican II, linh mục là người được chọn lên giữa loài ngưòi và được dành riêng cho Thiên Chúa (Dt 4, 11), được thánh hiến (Ga 17, 17-19), được đóng dấu bởi ấn tín truyền chức, làm cho linh mục trở thành hiện thân của Đức Kitô là Đầu Nhiệm Thể, trở thành “người tu sĩ của Thiên Chúa, le religieux de Dieu” như trường phái Pháp quốc chủ trương. Như thế, vì linh mục là hiện thân của Chúa Kitô, là người tu sĩ của Thiên Chúa, nên tiên vàn, ông phải là “người của Thiên Chúa, Homo Dei”.
3. Thứ đến, linh mục phải là “người của Giáo hội, homo Ecclesiae”. Trong mầu nhiệm Giáo hội, vị trí của linh mục là ở nơi cái sườn phẩm trật, tức là chức vụ tông đồ do Chúa Kitô thiết lập. Là người của Giáo hội nghĩa là sống tinh thần đồng trách nhiệm giữa hàng linh mục với nhau, đồng trách nhiệm giữa hàng linh mục với hàng Giám mục. Cũng có nghĩa là xây dựng phục vụ Dân Chúa bằng việc rao giảng Lời Chúa, thánh hóa Nhiệm Thể bằng các bí tích và quản trị Nhiệm Thể bằng những săn sóc mục vụ theo ân sủng đã mình lãnh nhận. (Rom 12, 4-8).
4. Thứ ba và cuối cùng, linh mục phải là “người của dân chúng, homo populi”. Khi đã nhận được thần trí do việc đặt tay của giám mục, linh mục mang lấy trách nhiệm gánh vác dân chúng. (x. Ds 11, 17). Khoa mục vụ dành cho những mục tử Vatican II là khoa mục vụ mà trong đó không một ai bị loại trừ: người già người trẻ, người khỏe người bệnh, người tin người không tin, đặc biệt là những người nghèo khó bé mọn vv. Tắt một lời, tha nhân là đối tượng phục vụ mục vụ của linh mục.
5. Như thế, nếu muốn diễn tả một cách thật tóm gọn nền linh đạo phong phú của một linh mục thời đại Vatican II, ta phải nhờ đến một thuật ngữ mang tính hiện sinh – xin mượn từ ngữ của Karl Jaspers – đó là cụm từ “sống với” và “sống cho”: Linh mục là người “sống với và sống cho” Thiên Chúa; Linh mục là người “sống với và sống cho” Giáo hội; Linh mục là người “sống với và sống cho” mọi người. “Sống cho” là mục đích, là lý tưởng, là điểm đến. “Sống với” là phương tiện, là con đường.
6. Đó là chân dung của linh mục mà Thánh Thần và các Nghị Phụ đã phác hoạ thành công tại Vatican II. Công đồng đã bế mạc, nhiệm vụ các Nghị Phụ đã hoàn tất, 2500 Nghị Phụ của những năm ấy, hầu như tất cả đã về với Chúa, nhưng việc của Thánh Thần thì chưa xong. Vì, để đem cái khuôn đó đúc thành những linh mục có thực, bằng xương bằng thịt, thì vẫn còn tùy thuộc vào công phu của các nhà đào tạo, tùy thuộc vào nỗ lực không ngừng của các đương sự có đón nhận sức đẩy của Thần Khí hay không! Bước đi trước Thiên Chúa, trong Giáo hội và giữa loài người. Đó là lời mời gọi của Công đồng và cũng là sự tự nguyện dấn thân của mỗi linh mục.
7. Tự do chọn lựa sự dấn thân đó, linh mục hiểu rõ những gì ông phải sống, phải làm, hiểu rõ những gì ông phải trung thành chung thủy, phải trước sau như một. Trong công cuộc dấn thân phục vụ Thiên Chúa và con người, trong Giáo hội và giữa xã hội, linh mục biết đâu là con đường trung thành, đâu là những ngõ ngách bất trung xa lạ, thế nào là đầy tớ khôn ngoan lương hảo, thế nào là kẻ phản bội bất lương. Linh mục sẽ không bao giờ lầm khi được Thiên Chúa đồng hành, đi cho tới cùng của ơn gọi. Linh mục sẽ không bao giờ lầm, không đi tới ngõ cụt, khi đẩy đời mình theo hướng làm trọn ý Chúa, không phải bằng một thứ tuân phục định mệnh mà là sự tuân phục tình yêu, tuân phục sự sống, tuân phục Thiên Chúa là Cha.
8. Rồi cuối cùng, linh mục, đặc biệt là những linh mục đã hiến dâng phần lớn đời mình trong thừa tác vụ, cũng phải để cho người đời chất vấn: “Ông đã một phần nào hy sinh mạng sống của ông là vì lý do gì vậy? Ông chọn cách sống mà ông phải trả giá khá đắt đó là vì ai và cho ai? Ông đã để cho đời mình tiêu hao mòn mỏi, đã để cho người đời lấy đi nhiều thì giờ và sức lực là để làm gì thế? Với các vị kỷ niệm Kim Khánh: Gần với điểm đến của đời người rồi,ông có ân hận gì về quyết định 50 năm về trước của mình hay không? Ông sẽ tiếp tục con đường đã chọn, vẫn phấn khởi mạnh dạn bước tới, hay sẽ cất những bước chân mệt mỏi, rã rời, những bước chân buông trôi, vô vọng?”
9. Những câu hỏi đó có thể làm cho linh mục nhức nhối phẫn nộ. Vì mọi thứ bi quan tiêu cực, có vẻ như báng bổ linh mục, như cho ông đã chọn lựa thiếu ý thức, chưa trưởng thành. Không! Những chất vấn của người đời không hề báng bổ linh mục mà thâm sâu là vì họ rất tôn kính trân trọng linh mục. Không báng bổ mà vẫn phải chất vấn vì linh mục luôn là một dấu hỏi rất lớn đối với người đời, luôn là một ẩn số đối với họ. Chỉ có cuộc sống trung thực của linh mục với lý tưởng đã chọn, trung thực với giáo huấn của Giáo hội đã đề ra, mới giải mã được những ẩn số đó mà thôi.
10. Không khoa trương, không cường điệu, song thực chất, trên mặt đất này, còn có lý tưởng nào lớn lao hơn cái lý tưởng, sống trọn đời trọn kiếp cho Thiên Chúa, cho Giáo hội, và cho tha nhân? Thí dụ như thánh linh mục Maximilianô Kolbê, như Mẹ Têrêxa thành Calcuta chẳng hạn. Cái lý tưởng cao cả nhưng khó khăn ấy, quả là điều đáng cho linh mục bỏ công chịu khó mà thực hiện, dù rằng ông biết rõ, tự sức riêng, không bao giờ vươn tới được. Khó khăn thay mà cũng cao cả thay, sống trung thực với lý tưởng linh mục!
11. Có một sinh viên, khi nghĩ về linh mục, đã viết trong nhật ký của mình mấy dòng chữ này, mà tôi muốn mượn để kết thúc cho bài suy niệm hôm nay:
“Linh mục ơi, tôi cám ơn ông vì ông đã làm linh mục. Ông thành công, tôi chúc mừng ông. Ông thất bại, tôi chia buồn với ông. Ông vấp ngã tôi cảm thương ông. Xin ông đứng dậy và tiếp tục bước đi. Không sao cả, những khuyết điểm, những bất toàn của ông. Tất cả chúng ta đều là người phàm. Nhưng, ông là “bạn của Đức Giêsu”, là người quen của Thiên Chúa, là người Chúa cần. Chúng tôi cũng cần ông. Trong bất cứ tình huống nào chúng tôi cũng vẫn tin ông, miễn là ông đừng bỏ mất lý tưởng.
Ước gì … ước gì ông tỏ cho chúng tôi thấy: ông chính là vị linh mục trong bức chân dung mà Công đồng Vatican II đã phác họa: “người của Chúa, người của Giáo hội, người của mọi người”. Xin cám ơn ông. Tạ ơn Chúa”./.
Bài chia sẻ trong Thánh lễ
Mừng Kim Khánh Linh mục.
TIÊN NGA GIÁNG TRẦN MỪNG KIM KHÁNH.
VỚI CHA…ĐẠO , GIÁO XỨ CHÂU SƠN.
CHƯ PAO…VỚI GIA ĐÌNH ANH CHỊ C. GIÁO DÂN TAM TÒA XƯA.
ĐÈO HÀ LAN…VIỆT NAM, BAN MÊ THUỘT!
NHÀ THỚ HÀ LAN A.
QUA ĐÊM TẠI NHÀ ANH CHỊ H. H.
42 NĂM TRƯỜC ĐÂY …ĐÔI TÂN HÔN H.H. TẠI QUÊ HƯƠNG AN NGÃI…NAY CHÁU NỘI CHÁU NGOẠI LỦ KHỦ!
BMT 12 – 8 – 2013
CÁC NỮ TU PHAOLÔ ĐÀ NẴNG SPC . 118 PHAN CHU TRINH BMT.
TRÊN NỮA THẾ KỶ SPC HIỆN DIỆN TẠI BMT. (1958)
THẦY DÒNG …BA…BIỂN ĐỨC : ĐAMIANÔ LÊ VĂN TRIỀU ( 1920-2004) GỐC TRÁ KIỆU, ĐÃ GẮN BÓ CÙNG LỊCH SỬ CÔNG GIÁO BMT TỪ NĂM 1949.
BÀ MARIA NGUYỄN THỊ HỮU LÝ TỪNG CHÊ ÔNG “GIÀ”
(CHÀNG 29 TUỔI, NÀNG 18) ĐẾN ĐỊNH CƯ TẠI BMT TỪ NẮM 1950.
KẾT THÚC MỘT NGÀY VUI VỚI “QUỲNH .. BA .. HOA”.
BMT CHÚA NHẬT 11 – 0- 13
HAI QUÁN CAFE NAY CÁCH NHAU MỘT CON ĐƯỜNG.
XE CON NƯỜM NƯỢP.
ĐỀU BƯỚC..MỘT HAI MỘT!
MỘT BẬC ĐÀN ANH
MỘ ĐỨC CHA GIUSE NGUYỄN TÍCH ĐỨC.
CÔNG KHÓ CỦA MỘT NGHỆ NHÂN…TÁM NĂM KIÊN TRÌ CẮT TỈA.
BMT 10 – 8 – 2013
CAFE MÊHICÔ.
BÍ ĐỎ
THĂM VƯỜN.
NHÀ THỜ DŨNG LẠC TƯƠNG LAI (ĐANG XÂY)
QUÁN TÀI VỚI CÁC LM, TS. NGƯỜI THÂN.
9 – 8 – 2013
BA LẦN ĐẾN BAN MÊ THUỘT CŨNG VÀO BAN ĐÊM.
8/8/13 CHUYẾN BAY 1414 KHỞA HÀNH HCMV 18 GIỜ 5
BAM MÊ THUỘT SAU NỮA GIỜ BAY.
CAFE BAN MÊ TẠI BẢO TÀNG TRUNG NGUYÊN 9/8/13
TGM BANMETHUỘT.
THÁNH LỄ BẾ MẠC KHÓA TĨNH HUẤN CỦA 760 CHỨC VIỆC
GIÁO PHẬN BMT. 15 GIỜ 30 9/8/13.
BMT 9/8/2013.
RUNNING BOY “CẬU BÉ CHẠY”
NATHAN DE BRITO 2013
và THỦY THỦ LUIS DE BRITO 1644.
Một bé trai 9 tuổi đã làm Đức Thánh Cha rơi lệ.( Têrêsa Thu Lan 8/2/2013) http://vietcatholic.org/News/Html/113217.htm
Hình ảnh và video cuả một bé trai 9 tuổi làm Đức Thánh Cha rơi lệ đã lan tràn ‘như lửa cháy’ trên cộng đồng mạng trong những ngày qua.
Lúc đó là hôm thứ Sáu ngày 26 tháng 7 khi xe cuả Đức Thánh Cha đi qua phố Rio, một cậu bé trai tên là Nathan de Brito, mặc áo thun cuả đội banh Brazil, đã len lỏi chạy theo Đức Thánh Cha một hồi rất lâu, rồi khi chiếc xe tạm ngừng thì đã vượt qua hàng rào an ninh, leo lên ôm lấy ngài và noí trong nước mắt: “Đức Thánh Cha ơi, con muốn trở thành một linh mục cuả Chuá Kitô, làm đại diện cho Chuá Kitô” Đức Thánh Cha đã tỏ ra rất xúc động, Ngài noí với em rằng:”Cha sẽ cầu nguyện cho con, nhưng Cha xin con cũng cầu nguyện cho Cha”, sau đó Ngài lau nước mắt cho em, ôm lấy em và nói, “Kể từ hôm nay thì ơn Kêu Gọi cuả con là chắc chắn nhé”. Phải khó khăn lắm người ta mới gỡ em ra khỏi Đức Thánh Cha và kéo em xuống. Cậu bé Nathan còn tiếp tục tung nụ hôn tới cho Đức Thánh Cha, cho đến khi một nhân viên an ninh giỗ dành em và đưa em về với gia đình.Theo tin từ Brazil cho biết thì Nathan là một cư dân cuả khu phố Cabo Rio, và sau khi sự việc xảy ra thì em đã được chào đón như một vị anh hùng.Hãng truyền hình O Globo TV mô tả rằng: “Mọi người đều đã biết về ước muốn làm linh mục cuả em và muốn biết thêm về cuộc gặp gỡ với Đức Giáo Hoàng và làm thế nào mà em đã có đủ can đảm để vượt qua hàng rào các nhân viên bảo vệ.” Bạn bè của em thì hãnh diện vì ‘một trong những người cuả chúng’ đã được gặp Đức Giáo Hoàng, còn gia đình de Brito thì cho biết họ cảm thấy “rất may mắn.” Còn cảm tưởng cuả em? “Em cần phải học thêm thần học”, cậu bé nói với một nụ cười, thêm rằng em sẵn sàng làm “tất cả mọi thứ” để theo đuổi ơn gọi làm linh mục cuả em. Keyla Fernandes, cô giáo của em, cho biết de Brito có điểm học xuất sắc và hạnh kiểm tốt. “Hạnh kiểm tốt chứng tỏ em đã thấm nhuần các đức tính Kitô giáo, chẳng hạn như đức vâng lời,” cô nói. Còn Cha Xứ Valdir Mesquita dự đoán rằng cuộc gặp gỡ với Đức Giáo Hoàng cuả em “sẽ truyền cảm hứng cho nhiều người khác muốn làm linh mục.” Kể từ khi em lên năm hay sáu tuổi, “em đã nói rằng em muốn trở thành một linh mục,” Cha Mesquita nói. “Cuộc gặp gỡ này chắc chắn sẽ lưu lại trong trái tim cuả em và mãi mãi thay đổi cuộc sống của em.” Nhắc lại sự việc đó trong bài phát biểu tại buổi họp ngày 30 tháng 7 để cảm ơn các nhân viên Ngày Giới trẻ Thế giới 2013, Đức Tổng Giám Mục Orani Tempesta của Rio de Janeiro cũng nói rằng tình cảm của cậu bé (dành cho Đức Thánh Cha) “là điển hình của toàn thể người dân Brazil.”
Dòng họ De Brito không ngờ quá phổ biến trên thế giới. Gốc gác dòng họ đến từ đâu? Qua trang mạng có người cho tổ tiên từ Anh quốc đến Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha vào thế kỷ thứ 10. Brito, Britto, Britton…có lẻ gần chữ British, hay Breton?? Hiện nay dòng họ nầy có mặt trên khắp các châu lục, từ Á châu như Macau; đến Mỹ Châu như Brazil, Hoa Kỳ (Texas, Arizona, Mehico, California…), Canada, Mexico; nhất là ở Âu Châu như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp, Đức, Anh, Hà Lan, Thụy Sĩ. Áo ; họ cũng có mặt ở Úc Châu; và Nam Phi (Phi Châu). Họ có thánh như thánh Gioan de Brito (1647- 1693) hay tay vợt tennis nữ danh tiếng Michelle Larcher De Brito.
Cậu bé chạy “Running boy” Nathan de Brito ôm cổ Đức giáo hoàng đang nổi đình đám trên các trang mạng chắc làm cho dòng tộc nầy hả lòng, hả dạ!
Không ngờ trong số các nhân chứng về cuộc tử đạo năm 1644 của thầy giảng Anrê Phú Yên cũng có một ông thuộc họ de Brito
BIÊN BẢN THỨ 18 VỀ CÁI CHẾT CỦA THẦY GIẢNG ANRÊ PHÚ YÊN
NHÂN CHỨNG THỨ MƯỜI TÁM : LUIS DE BRITO
XEM : http://antontruongthang.com/a-thanh-anre/
MACAU XƯA.
Cùng ngày 11 tháng Giêng năm 1645, anh Luis de Brito đến trình diện, anh khai ba mươi tuổi, anh biết thầy Anrê và nhiều lần đàm đạo với thầy. Đương sự cho biết đã đi Đàng Trong đến bảy, tám lần. Quả là một thủy thủ lão luyện. Thông tin trên cũng đồng nghĩa với việc anh quá quen thuộc vùng Hội An và Kẻ Chàm (Cachao ). Vì là người công giáo, chủ nhật và lễ trọng nào anh cũng đến dự lễ tại nhà linh mục Alexandre de Rhodes, vị linh mục duy nhất sống và làm việc tại vùng đất nầy. Do vậy anh xác nhận : “ mặt giáp mặt ( thầy Anrê ), thầy độ chừng vào tuổi đã nói đó,( tức 19 tuổi trong câu hỏi thứ nhất ) và nhân chứng đã nói chuyện nhiều lần với thầy, vì nhân chứng đã đến Nam Việt đến 7 hay 8 lần; nhưng không biết thầy là con của ai, chỉ biết rằng thầy Anrê phục vụ cha Alexandre Rhodes trong việc quản trị những người Kitô hữu”.
Anh không nhớ rõ ngày tháng hành hình chỉ: “nhớ là vào tháng bảy năm vừa qua.” .
AnĐoạnh khai rõ như nhiều chứng nhân khác : “thầy đã bị bắt vào năm ngoái khi thầy đang ở trong nhà của Cha ở gần Hội An, và đang lúc thầy xếp và sắp đặt lại những đồ thánh mà cha vừa dâng thánh lễ xong, và từ đó thầy bị giải đi làm tù nhân ở Kẻ Chàm, vì đó là điều hiển nhiên và mọi người ai cũng biết. “
Anh cũng như các người Bồ Đào Nha tin rằng thầy quả là một vị tuẩn đạo nên cũng tìm cho được một thánh tích : “và chính nhân chứng cũng sở hữu một mãnh vải của thầy mà nhân chứng rất quý”. Vào giai đoạn hỏi cung nầy anh biết rõ dân thành phố Macau rất sùng mộ thầy Anrê : “chính nhân chứng biết rằng thi thể của thầy đang ở Học viện của Dòng Tên “
Do quen biết nhiều và : “đã nói chuyện nhiều lần với thầy Anrê, và trong những lần nói chuyện này nhân chứng đã nhận thấy thầy có nhiều nhân đức Kitô giáo; và khi nhìn thấy cuộc sống và cái chết của thầy nhân chứng xác tín chắc chắn là thầy có những nhân đức đó, bởi vì thầy đã chết vì đức tin vào Chúa Kitô và vì tình yêu dành cho Ngài”.
Chúng ta khó có thể nghi ngờ về sự thành thật của anh Luis de Brito qua những lời khai sau đây. Phải trã lời 8 câu hỏi
NHÂN CHỨNG THỨ MƯỜI TÁM : LUIS DE BRITO
DINH TRẤN THANH CHIÊM (CACIAM) XƯA)
Vào cùng một ngày, một tháng, một năm và một địa điểm ( 11 THÁNG 01 NĂM 1645, MACAU), nhân chứng Luis de Brito có mặt. Nhân chứng là con trai của Francisco Soares de Brito và bà Maria Rozada, đã lập gia đình và trú quán tại thành này, đã khai ba mươi tuổi; là nhân chứng được thầy Manoel de Figueiredo chỉ định và được thư tín viên Antonio Rangel triệu mời. Cha tổng quyền cho nhân chứng thề trên Sách Phúc Âm, anh đặt tay phải lên Sách Phúc Âm và hứa nói sự thật theo những gì anh biết và sẽ được chất vấn. Trả lời câu hỏi năm nay có xưng tội không và mấy lần, nhân chứng đáp đã xưng tội theo luật buộc trong mùa Chay vừa qua,với cha Manoel de Miranda Dòng Tên, và đã lãnh nhận Thánh Thể từ tay của cha xứ, hạt trưởng nhà thờ thánh Laurent. Và trả lời câu hỏi có bao giờ bị dứt phép thông công chưa, nhân chứng đáp nhờ Chúa thương xót anh chưa bị dứt phép thông công. Với lời cảnh báo phải nói sự thật và cân nhắc cẩn thận bởi thề gian là một tội nghiêm trọng, nhân chứng tuyên bố có biết thề gian là một tội nặng nề và vì vậy nhân chứng sẽ nói sự thật theo những gì mình biết được liên quan đến vấn đề này.
Câu hỏi thứ nhất.
Nhân chứng trả lời rằng có biết thầy Anrê mặt giáp mặt, thầy độ chừng vào tuổi đã nói đó, và nhân chứng đã nói chuyện nhiều lần với thầy, vì nhân chứng đã đến Nam Việt đến 7 hay 8 lần; nhưng không biết thầy là con của ai, chỉ biết rằng thầy Anrê phục vụ cha Alexandre Rhodes trong việc quản trị những người Kitô hữu ở đó; thầy đã bị bắt vào năm ngoái khi thầy đang ở trong nhà của Cha ở gần Hội An, và đang lúc thầy xếp và sắp đặt lại những đồ thánh mà cha vừa dâng thánh lễ xong, và từ đó thầy bị giải đi làm tù nhân ở Kẻ Chàm, vì đó là điều hiển nhiên và mọi người ai cũng biết.
Câu hỏi thứ hai.
Nhân chứng trả lời rằng điều hiển nhiên và mọi người đều biết là thầy Anrê đã bị trói, bị đánh đòn bởi vì thầy là Kitô hữu và dạy đạo Chúa Kitô; và sau đó bị giải về Kẻ Chàm, ở đó quan Ông Nghè Bộ khảo thầy có phải là Kitô hữu không, thầy đã can đảm trả lời rằng thầy là Kitô hữu, và thầy sẵn sàng chết vì đạo Chúa Kitô; và vì lời tuyên xưng này mà thầy bị giải làm tù nhân trong một chỗ, một túp lều dùng làm nhà tù, ở đó thầy bị giam giữ với một cái gông cùm trên cổ trong khoảng 24 tiếng đồng hồ, cùng với một Anrê khác, là một cụ già, người này vì đã già và vì còn có gia đình nên quan đã tha mạng. Và cũng vậy, điều hiển nhiên và mọi người đều biết là quân lính thừa lệnh hành pháp còn mang theo mệnh lệnh bắt giam những người khác vì cùng một lý do.
Câu hỏi thứ ba.
Nhân chứng trả lời rằng có nghe những Kitô hữu Bồ, cũng như những người lương dân và Kitô hữu Nam Việt nói một cách đồng nhất rằng thầy Anrê bị quan Ông Nghè Bộ, người cai trị vùng đó, kết án tử hình, và thầy đã chấp nhận bản án đó với một khuôn mặt vui vẻ; và cũng vậy, nhân chứng nghe nói rằng thầy đã bị giải cách công khai đến nơi hành hình, là nơi cách xa địa phương, ở đó thầy bị giáo đâm và bị một người khác cắt cổ, trong khi đó thầy tiếp tục luôn tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, và khích lệ những Kitô hữu khác phải vững vàng gắng bó với Chúa Kitiô; và những sự kiện này đã xảy ra theo như nhân chứng nhớ là vào tháng bảy năm vừa qua.
Câu hỏi thứ tư.
Nhân chứng trả lời rằng đã nghe nói từ miệng của những người Bồ là những nhân chứng của cái chết này. Họ là: Francisco de Azevedo, João de Rezende, Agostinho da Silva, Domingos Rodrigues, Antonio Mendes, Horacio Massa, và cha Alexandre Rhodes, và những người khác, họ hiện diện và đã nhìn thấy cái chết; họ đón lấy thi thể và máu với sự trang trọng và lòng mộ mến; và thi thể được những người Nam Việt trao cho cha Alexandre Rhodes, sau đó ngài trao lại cho thuyền trưởng tàu buôn João de Rezende, người này chở thầy đến thành phố này. Ở đây thầy được tiếp đón long trọng và đông đảo dân chúng, rồi thầy được trao lại cho Cha giám đốc Học viện Dòng Tên, như tất cả những điều này là hiển nhiên và mọi người đều biết.
Câu hỏi thứ năm.
Nhân chứng trả lời rằng đã nghe nói công khai ở Nam Việt rằng ông quan này đã hành quyết thầy vì ly do thầy là Kitô hữu theo mệnh lệnh của nhà vua xứ này, và bởi vì nhà vua không đồng ý có những Kitô hữu trong đất nước ông ta., và về điểm này nhân chứng cũng nghe nói vào lúc xảy ra cuộc bắt giữ thầy Anrê, quân lính đã lấy đi vài ảnh thánh và đồ thánh, sau đó những thứ này được trả lại cho cha Alexandre Rhodes; và ông quan Ông Nghè Bộ đã báo trước cho Cha rằng cha phải quay trở về Macao và không được lưu lại tại Nam Việt để sản sinh thêm nhiều Kitô hữu, bởi vì đó là mệnh lệnh và ý muốn của nhà vua.
Câu hỏi thứ sáu.
Nhân chứng trả lời rằng thầy bị giết vì lý do thầy là Kitô hữu chứ không phải vì một tội phạm nào khác, như mọi người và công chúng đều biết.
Câu hỏi thứ bảy.
Thầy Anrê có những nhân đức đối thần, là đức tin, đức cậy và đức mến, cũng như những nhân đức luân lý không? Cùng với những điều còn lại được kể ra trong mục này không?
Nhân chứng trả lời rằng đã nói chuyện nhiều lần với thầy Anrê, và trong những lần nói chuyện này nhân chứng đã nhận thấy thầy có nhiều nhân đức Kitô giáo; và khi nhìn thấy cuộc sống và cái chết của thầy nhân chứng xác tín chắc chắn là thầy có những nhân đức đó, bởi vì thầy đã chết vì đức tin vào Chúa Kitô và vì tình yêu dành cho Ngài, để đạt đến cuộc sống vĩnh hằng; và thầy cũng nhiệt thành trong việc phụng sự Thiên Chúa, siêng năng lãnh nhận các bí tích Sám Hối và Thánh Thể, và thầy có đức ái đối với những người đồng bào Kitô hữu, điều này cũng là hiển nhiên với đại chúng và ai cũng biết.
Câu hỏi thứ tám.
Nhân chứng trả lời rằng thầy Anrê được các Kitô hữu tại Nam Việt cũng như tại Macao đây coi là vị thánh tử đạo thực thụ bởi; người ta tìm kiếm và quý chuộng các thánh tích của thầy; và chính nhân chứng cũng sở hữu một mãnh vải của thầy mà nhân chứng rất quý; chính nhân chứng biết rằng thi thể của thầy đang ở Học viện của Dòng Tên ở thành phố này, được gìn giữ cách hết sức tôn nghiêm và mộ mến; nhưng chính nhân chứng không biết cho đến nay Thiên Chúa đã thực hiện phép lạ nào do sự chuyển cầu của thầy hay chưa. Và nhân chứng không nói gì thêm.
Và sau khi chứng từ này được đọc lại từng chữ một cho nhân chứng nghe, anh tuyên bố chứng từ này được viết theo đúng sự thật và anh không có gì để thêm vào hoặc bớt đi, và anh chấp nhận và xác định là chứng từ của mình và ký tên mình với Đức Cha tổng quyền, và với tôi, cha Antonio da Silva, thư ký Pháp lý của toà giám mục và công chứng viên chính cho vụ án này, là người chép chứng từ này. Ký tên: Luis de Brito. Manuel Fernandes, thuyền trưởng. Cha Antonio da Silva.
Hội An ngày 11 tháng 11 năm 2009. Lm. Anton Nguyễn Trường Thăng
SAIGON 7 THÁNG 8 NĂM 2013
THÁNG 07- 2013
ĐẠI HỘI GIỚI TRẺ CÔNG GIÁO THẾ GIỚI 2013 RIO. BRAZIL TỪ 23 ĐẾN 28 THÁNG 6 NĂM 2013. Trong bao đề tài, bao bài chia xẻ, mấy câu nầy xem ra khá “bạo phổi” đối với một người có tuổi 76 và chỉ còn một lá phổi : Đức Thánh cha Phanxicô.
Eu quero dizer a vocês que eu espero como resultado do Dia da Juventude: Espero que não haja ruído. Aqui haverá ruído, não será. Aqui no Rio haverá ruído, não será. Mas eu quero que você ouça nas dioceses, assim que eu quero estar do lado de fora, eu quero que a Igreja assim na estrada, eu quero-nos a defender tudo o que é mundano, a imobilidade, o que é conveniência, que é clericalismo, tudo o que nos mantém trancado em nós mesmos. Paróquias, as escolas, as instituições são feitas para ir para fora … se eles não se tornem uma ONG e da Igreja não pode ser uma ONG. Os bispos e padres, perdoe-me se, depois de criar alguma confusão. Este é o conselho. Obrigado pelo que você pode fazer.
Je désire vous dire ce que j’espère comme conséquence des Journées de la Jeunesse : j’espère qu’il y ait du bruit. Ici il y aura du bruit, il y en aura. Ici à Rio il y aura du bruit, il y en aura. Mais je veux que vous vous fassiez entendre dans les diocèses, je veux qu’on sorte dehors, je veux que l’Église sorte sur les routes, je veux que nous nous défendions de tout ce qui est mondanité, immobilisme, de ce qui est commodité, de ce qui est cléricalisme, de tout ce qui nous tient enfermés sur nous-mêmes. Les paroisses, les écoles, les institutions sont faites pour sortir dehors…, si elles ne le font pas elles deviennent une ONG et l’Église ne peut pas être une ONG. Que les évêques et les prêtres me pardonnent, si après certains vous créeront de la confusion. C’est le conseil. Merci pour ce que vous pourrez faire.
Let me tell you what I hope will be the outcome of World Youth Day: I hope there will be noise. Here there will be noise, I’m quite sure. Here in Rio there will be plenty of noise, no doubt about that. But I want you to make yourselves heard in your dioceses, I want the noise to go out, I want the Church to go out onto the streets, I want us to resist everything worldly, everything static, everything comfortable, everything to do with clericalism, everything that might make us closed in on ourselves. The parishes, the schools, the institutions are made for going out … if they don’t, they become an NGO, and the Church cannot be an NGO. May the bishops and priests forgive me if some of you create a bit of confusion afterwards. That’s my advice. Thanks for whatever you can do.
“Cha muốn chúng con làm cho mình được lắng nghe tại các giáo phận của chúng con, cha muốn tiếng ồn bay ra ngoài, cha muốn Giáo Hội ra đường phố, cha muốn chúng ta chống lại những gì là thế gian, những gì là định lập, những gì là thoải mái, những gì liên quan tới giáo sĩ trị, những gì làm ta tự khép kín vào chính ta. Các giáo xứ, các trường học, các định chế được lập ra là để đi ra ngoài… nếu không đi ra ngoài, chúng sẽ trở thành một tổ chức phi chính phủ (NGO), mà Giáo Hội thì không thể là một tổ chức phi chính phủ được. Ước mong các giám mục và các linh mục tha thứ cho cha nếu một số trong các con tạo ra đôi chút lộn xộn sau này. Đó là lời khuyên của cha. Cám ơn về bất cứ điều gì các con có thể làm được”
(bản dịch Vũ văn An)
Bản dịch Việt Ngữ xem ra “hơi hiền”! I want the Church to go out onto the streets, I want us to resist everything worldly, everything static, everything comfortable, everything to do with clericalism, everything that might make us closed in on ourselves (tiếng Anh) eu quero que a Igreja assim na estrada, eu quero-nos a defender tudo o que é mundano, a imobilidade, o que é conveniência, que é clericalismo, tudo o que nos mantém trancado em nós mesmos (tiêng Bồ) , je veux que l’Église sorte sur les routes, je veux que nous nous défendions de tout ce qui est mondanité, immobilisme, de ce qui est commodité, de ce qui est cléricalisme, de tout ce qui nous tient enfermés sur nous-mêmes (tiếng Lm Antôn nghĩ nếu dùng tiếng Việt, có lẻ Đức thánh cha sẽ hô hào như sau: Cha muốn Giáo Hội xuống đường, cha muốn các con chống lại các loại phàm tục, tất cả những gì xơ cứng chai lỳ, những gì gọi là thoải mái, chống « cha chú chủ nghĩa », thứ tự chế tù ngục giam hãm mình… Hihi! Sorry!
HÈ NĂM NAY TẠI GIÁO XỨ HÒA HƯNG, SG.
HAI MƯƠI NĂM THÀNH LẬP CA ĐOÀN KHỐI 4.
TIẾP SỨC MÙA THI 9 NGÀY.
Gấn 200 thí sinh và người thân về đây : ở, ăn, được đưa đến địa điểm thi …miễn phí!
MỪNG KỶ NIỆM KHẤN, THỤ PHONG LINH MỤC . LỄ THÁNH PHÊRÔ, PHAOLÔ 29-6-2013.
THÁNH ANÊ LÊ THỊ THÀNH. QUAN THẦY CÁC BÀ MẸ CÔNG GIÁO HÒA HƯNG. 12 THÁNG 7.
HÀNH HƯƠNG ĐỨC MẸ MÊ KÔNG TỪ 13 ĐẾN 14 THÁNG 7 NĂM 2013.
NGÀY 13 THÁNG 7 NĂM 2013.
Khởi hành lúc 4 giờ 30 tại Nhà thờ Hòa Hưng. Ăn sáng trên xe. 6gio30 thủ tục nhập cảnh Mộc Bài. Thăm nhà thờ công giáo Việt Kiều Kampuchia gần công ty phân bón Long An. 10 giờ qua phà Neak Leuong. Vượt sông Mê Kông đến Arey Khsath ( nhà thờ Bãi Cải nơi lưu giữ 2 bức tượng đồng Đức Mẹ vớt từ sông Mê Kông năm 2008 và 2012. Dâng lễ (ngồi). Về khách sạn Lucky Star. Chiều tham quan Hoàng Cung, Chùa Vàng, Chùa Bạc. Thăm Đài tưởng nhớ bao người trai Việt Nam bỏ mình trên đất nước nầy trong đó có nhiều thanh niên công giáo. Tối thăm Quảng trường Tự Do và Casino Naga.
XUA SƠ ĐÂY KAMPUCHIA! XIN CHÀO CAMPUCHIA !
NGÀY CHÚA NHẬT 14 THÁNG 7 NĂM 2013.
Dân Campuchia chuẩn bị bầu cử Quốc Hôi, các đảng phái hoạt độnh tranh cử nhộn nhịp . Đi thăm các cộng đồng công giáo Kampuchia (Việt kiều) Tuakasang . Thánh lễ tại một trung tâm Bác Ái Phan Sinh .Thăm chủng viện cũ Nam Vang. Trưa lên xe về lại Việt Nam. 10 giờ đêm tới Hòa Hưng.
OKUM ! XOM LIA CAMPUCHIA ! CÁM ƠN! TẠM BIỆT CAMPUCHIA !
MỪNG QUAN THẦY HĐGX HÒA HƯNG THÁNH ANRÊ KIM THÔNG.
RƯỚC LỄ LẦN ĐẦU HÒA HƯNG.
THÊM SỨC GX HÒA HƯNG 28 THÁNG 7 NĂM 2013.
TANG & GIỖ THÁNG 7 2013.
27/ 7/2013 AN TÁNG LINH MỤC PHÊRÔ LÊ ĐÌNH KHÔI, HUẾ., TẠI CHÍ HÒA, SG.
Sinh ngày 17 tháng 10 năm 1937 tại Đại Lộc, Quảng Trị.
Đã qua đời lúc 3 giờ 45 ngày 25 tháng 7 năm 2013, tại Giáo xứ Chí Hoà, Sài Gòn. Hưởng thọ 76 tuổi, 43 năm linh mục. – Nhập quan: 14 giờ thứ năm, ngày 25 tháng 7 năm 2013 tại Chí Hoà, Sài Gòn. – Thánh lễ An Táng 09 giờ sáng thứ bảy, ngày 27 tháng 7 năm 2013, tại Nhà Thờ Chí Hoà, Sài Gòn, do Đức TGM Têphanô chủ trì.. 24 /7/2013 GIỖ 2 NĂM LINH MỤC GIUSE NGUYỄN THANH LIÊN, KONTUM, ĐỒNG LỚP KHÓA 6 GHHV, TẠI PHÚ MỸ HƯNG, SG
20/7/2013 GIỖ LM F.X. NGUYỄN TIẾN CÁT, TU HỘI XUÂN BÍCH, VỚI CHỦNG SINH TCV GIOAN. GIÁO XỨ NHÂN HÒA.
15/7/2013 AN TÁNG LINH MỤC ĐÔMINICÔ NGUYỄN VĂN TÂN, (GIÚP LM ANTÔN TẠI THỊ NGHÈ 1974-1975), NHÀ THỜ TÂN ĐỊNH, SG.
Trong Thánh lễ an táng tại Nhà thờ Tân Định sáng ngày 15/7/2013. Với tình cảm đặc biệt dành cho vị Cha già Đôminicô, đông đảo của giáo dân cũng như Linh mục từ khắp nơi của TGP TP.HCM đã quây quần trong ngôi Nhà thờ Tân Định để cầu nguyện cũng như nói lời chia tay với Ngài. Chủ tế Thánh lễ là Đức GM phụ tá Phêrô, bên cạnh đó còn có sự hiện diện của Cha Hạt trưởng Tân Định JB. Võ Văn Ánh, đại diện GM-đặc trách giáo dân, Cha Antôn Hà Văn Minh-đai diện Linh mục GP. Phú Cường, quý Cha Hạt trưởng và 107 Linh mục cùng đồng tế trong Thánh lễ. 7/7/2013 ĐỨC CHA F.X. NGUYỄN QUANG SÁCH QUA ĐỜI. TGM ĐÀ NẴNG.
BA NGÀY CUỐI ĐỜI CỦA
Á THÁNH ANRÊ PHÚ YÊN
24 THÁNG 7 ĐẾN 26 THÁNG 7 NĂM 1644.
Qua website của TS HỒ NGỌC ĐỨC chúng ta co thể lấy ra 3 tờ lịch những ngày cuối đời của Á thánh Anrê theo Âm Lịch bắt đầu từ ngày 24 đến 26 tháng 7 năm 1644. XEM: http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/amlich/PHP/index.php
NGÀY 24 THÁNG BẢY 1644. Đó là một ngày Chúa nhật. Công đồng người Nhật Bản công giáo tại Hội An, các thương gia thủy thủ Bồ Đào Nha và giáo dân bản địa đã kéo về cơ sở của linh mục Alexandre de Rhodes bờ Nam sông Đế Võng, làng Hoa Nông để dâng lễ Chúa nhật theo luật Giáo hội.
KHU DÂN CƯ NHẬT BẢN VÀ BẾN TÀU, HOA NÔNG NẰM VỀ BỜ NAM ĐẾ VÕNG.
TRANH NHẬT BẢN THÊ KỶ 17.
NGÀY 25 THÁNG 7 NĂM 1644. LỄ THÁNH GIACÔBÊ Một ngày lễ kính vị thánh lừng danh được cộng dồng giáo dân Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và các nước liên hệ tôn sùng. Linh mục Alexandre de Rhodes tiếp tục dâng lễ . Nghe tin ông Anrê già Thanh Chiêm bị Ông Nghè bắt, sau lễ ngài tức tốc lên ghe đi Kẻ Chàm, Dinh trấn Quảng Nam. Vào trưa hôm đó, toán lính ập vào bắt thầy Inhaxiô, nhưng thầy vắng nhà. Thầy Anrê, chàng trai 19 tuổi “lý sự” đã bị bắt trói, đóng gông và cho xuống thuyền chuyển về Kẻ Chàm. Một cuộc họp sơ bộ do Ông Nghè Bộ chủ trì trong đêm. Đến khuya cả hai Anrê, một già một trẻ bị đóng gông cổ và cùm chân được giam giữ trong một trại cưa.
NGÀY 26 THÁNG BẢY NĂM 1644. Một ngày THỨ BA. Ông Nghè Bộ triệu tập tòa án và xử thầy Anrê phải tử hình do không chịu chối bỏ Đạo Chúa Kitô. Sau khi bị dẫn qua các phố phường thị uy. Ông già Anrê “vì già mà ngu” được tha. Chàng trai Anrê làng Phú An, tỉnh Ranran quá cứng đầu “muốn chết vì đạo Chúa trời đất…cho nó chết”. Bản án được thi hành vào chiều 26 tháng 7 năm 1644, tại một đám ruộng phía Tây Dinh trấn. Nhiều người Bồ Đào Nha và giáo dân chứng kiến. Khuya hôm đó xác được chuyển về Hội An.
SAU BAO NĂM CHỜ ĐỢI. NĂM 2000 ĐỨC THÁNH CHA GIOAN PHAO LÔ 2,
ĐƯA NGƯỜI LÊN Á THÁNH. KHI NÀO SẼ LÀ HIỂN THÁNH ĐÂY????
SG 24 THÁNG 7 NĂM 2013
KỶ NIỆM GIỖ LẦN THỨ 369 Á THÁNH ANRÊ PHÚ YÊN.
ĐI MẦN…RĂNG!
TRƯỚC.
Cái răng cái tóc là góc con người. Qua 70 năm không lo cho răng miệng, lại thêm sống những vùng thiếu chất nầy, chất nọ như 8 năm Đà Lạt, 3 năm Sài Gòn… khiến hàng “hậu vệ” bị thiệt hại nặng. Nhiều lúc vá víu nơi nầy, chỗ khác …mà cũng không đem lại kết quả mong muốn. Hai năm nay, có tuổi càng lo, sợ mất thêm hàng ‘tiền đạo’. Lần nầy dù tốn kém cũng phải lo “tân trang nụ cười”. Không ngờ chuyện tưởng đơn giản mà mất gần…hai năm. Năm ngoái 2012…nhỗ răng. Eo ơi, môt cái răng hư 3, 4 chấu chi đó đã khiến hai nha sĩ hì hục trên tiếng đồng hồ mới lôi hết nó ra. Mà đâu phải một cái…! Thời kỳ “dưởng thương’ khá lâu … vì kèm thêm “đai ê bết” ( tiểu đường). Sau đó vì chuyện chuyển nơi cư trú theo Giáo luật nên đành hẹn “tái ngộ” mà chưa thanh toán tiền công. Năm nay lại tiếp tục đại tu tại Nha khoa Minh Đức Xuân Hồng Tp HCM. Sau vài tuần chịu các loại “tra tấn” như rút tủy, khoan , mài, đục, kéo, ngộp thở vì nước…kết quả thành công tốt đẹp! Xin cám ơn Nha khoa Minh Đức và các nha sĩ tận tâm. Hóa đơn cũng thương giảm cho phân nữa, không thì chịu hết xiết! Tới 14 cái răng sứ chứ đâu có ít ỏi gì!
VÀ SAU.
Xin giới thiệu Nha Khoa Minh Đức cho những ai có nhu cầu..
WELCOME TO MINH ĐỨC.
Kính chào quý khách,
Tại phòng mạnh nha khoa Minh Đức, câu khẩu hiệu của chúng tôi từ 14 năm nay là: “tất cả vì nụ cười của bạn.” Tại sao trọng tâm của chúng tôi lại đặt vào nụ cười? Con người có thể tồn tại ở thế kỷ 21 này hay không nếu như họ không tự tin với nụ cười của chính mình? Trừ khi họ đi theo lối sống ẩn dật, tự tin với nụ cười của mình là điều cần thiết cho mọi hoàn cảnh xã hội ngày nay. Trong xã hội thời nay, ấn tượng đầu tiên đóng một vai trò quan trọng trong sự thành đạt của mỗi cá nhân. Và nụ cười đóng góp một phần lớn trong việc đạt được ấn tượng đầu tiên này.Đây là lý do tại sao ở nha kha Minh Đức, chúng tôi hết mình “tất cả vì nụ cười của bạn.”
Phục hình răng sứ: trên 50,000 bệnh nhân đã được phục hồi chức năng ăn nhai và thẩm mỹ tại văn phòng.
Chất lượng: văn phòng được trang bị đầy đủ với những máy móc, dụng cụ và vật liệu từ mỹ và các nước châu Âu. Vì vậy, sức khỏe răng miệng và nụ cười được chăm sóc và điều trị ở mức độ hoàn hảo nhất .
Đội ngũ nha sĩ và phụ tá: những nha sĩ tại phòng mạch đã có tay nghề vững vàng, kinh nghiệm và cập nhật kiến thức khoa học thường xuyên. Sự thân thiện của nha sĩ và sự chăm sóc ân cần chu đáo của phụ tá sẽ đem lại cho quý vị sự thoải mái và nhẹ nhàng trong điều trị.
La-bo riêng của nha khoa Minh Đức: Phòng mạch có la-bo riêng để đáp ứng yêu cầu kỹ thuật và chất lượng cao nhất trong thời gian ngắn nhất. Đội ngũ kỹ thuật viên được đào tạo bài bản bỡi những chuyên gia của các hãng vật liệu nước ngoài như là hãng sứ vita, zicorias, v..v.. với la-bo riêng, nha sĩ và kỹ thuật viên của chúng tôi hợp tác một cách hiệu quả và chính xác hơn cho mọi ca phục hình khác nhau. Bên cạnh đó, La-bo Minh Đức sử dụng những vật liệu chất lượng cao như là kim loại của hãng Bego’s từ Đức không gây độc hại cho sức khoẻ của quý vị. Thí dụ như kim loại không có Ni-ken và berilium, 2 kim loại đã được công bố gây ngộ độc cho sức khoẻ bệnh nhân.
Tư vấn: Nha sĩ chúng tôi sẽ tư vấn những phương pháp điều trị phù hợp với mọi trường hợp và khả năng của quý khách.
Chỉnh nha: Nha sĩ của chúng tôi có kinh nghiệm chỉnh nha trong 13 năm qua và đã đem lại những cười tự tin cho ít nhất 2000 bệnh nhân.
· Minh Đức 1
· Minh Đức 2
· Minh Đức 3
Địa chỉ: 122/83 Phạm Văn Hai, P.2, Q.Tân Bình. Tel: (084-8) – 39918818 (084-8) – 39918819
MỪNG 100.000 CUỘC VIẾNG THĂM
antontruongthang.com.
Trưa nay vào mạng mới biết antontruongthang blog đã qua ngưởng 100.000. Vui vui. Hy vọng cái cơ quan “nghe lén” gì của Mỹ mà báo chí nói đến trong những ngày qua, sẽ giữ giùm các bài viết của mình thêm vài chục năm nữa. Lúc đó, xác mình chắc đã ra tro bụi rồi. Xin cám ơn trước, vì không có “cái Internet” chắc chẳng ai biết về mình. Cứ sống ngay thẳng, đừng giả dối thì có gì mà phải sợ “tiết lộ bí mật”!
12 giờ ngày 12 tháng 7 năm 2013, có 100,179 cập nhật . Ngày đông nhất: 357 views. Hi hi.
SAO CHÚ KHÔNG VỀ ?
Sao chú không về quê hương? Về với những nương chè, đồng lúa tuổi thơ?Bên bóng giáo đường đồi cao, nơi ươm bao giấc mơ phụng sự. Nhiệm vụ hoàn thành, cả một đời lao đao lận đận, sao chú không được về nằm cạnh người thân. Dù nghèo, dù khổ vất vã lầm than, nhưng là mẹ, là cha, là anh là chị. Sao chú không được về thăm lại bạn bè thân thiết nghĩa trang xưa, nơi chú từng tiển chân, hẹn tái ngộ một ngày. Phải chăng lời hứa gió bay, với những ai từng chia ngọt xẻ bùi, đồng lao cọng khổ. Ở đấy có hàng vạn người đang chờ, đang đợi, sao chú lại nằm đây. Một mình, trong hang đá, giữa khói bụi ô nhiểm phố phường nầy?
LỄ AN TÁNG ĐỨC CHA F.X. NGUYỄN QUANG SÁCH.
XEM :
http://www.flickr.com/photos/vietcatholic/sets/72157634590670849/
http://giaophandanang.org/articles/view/thanh-le-an-tang-duc-cha-phanxico-xavie-nguyen-giam-muc-da-nang
TIỂU SỬ VÀ BÀI GIẢNG TRONG THÁNH LỄ
AN TÁNG ĐỨC CHA F.X. NGUYỄN QUANG SÁCH ( từ giaophandanang.org)
TIỂU SỬ ĐỨC CHA PHANXICÔ XAVIÊ
NGUYỄN QUANG SÁCH Được đọc trong Thánh Lễ An Táng ngày 11/7/2013
“Ta sẽ ban cho các ngươi những mục tử như lòng Ta mong muốn” (Gr 3,15).
Vị mục tử thứ hai Chúa ban cho giáo phận Đà Nẵng là Đức Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Quanh Sách. Ngài sinh ngày 25 tháng 5 năm 1925 tại giáo xứ An Ngãi. Năm 13 tuổi, theo tiếng Chúa gọi, ngài vào học tại Tiểu Chủng viện Làng Sông, giáo phận Qui Nhơn. Mãn thời Tiểu Chủng viện, ngài về Qui Nhơn học Đại Chủng viện rồi tiếp tục cho đến hết chương trình tại Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn. Năm 1955, ngài làm giáo sư Tiểu Chủng viện Nha Trang cho đến ngày 8 tháng 8 năm 1956, ngài được thụ phong linh mục tại Nha Trang do Đức Cha Marcel Piquet Lợi. Năm 1957 ngài làm phó xứ Chính Tòa, Qui Nhơn. Đây là giáo vụ cuối cùng của ngài tại giáo phận mẹ Qui Nhơn để rồi qua năm sau (1958), ngài về làm quản xứ Phước Tường, khởi đầu ‘chặng đường lên Giêrusalem’(x. Lc 9,51) của vị Tông đồ Chúa Kitô, sẵn sàng đến những nơi và đảm nhận những công việc mà đoàn chiên Chúa cần đến.
Ngài chỉ ở tại giáo xứ ngoại ô thành phố này không đầy một năm, sau đó được thuyên chuyển lên xứ đạo miền núi Thuận Yên, vùng Tam Sơn, Xuân Bình. Được tám tháng vì lí do sức khỏe, ngài phải đổi về La Nghi, nay là Cẩm Hà nằm trên đường đi Hội An, xứ đạo này ngày nay không còn nữa. Ngài ở đây hai năm, đến năm 1960 chuyển về làm quản xứ Xuyên Quang. Lúc bấy giờ ngọn lửa chiến tranh bùng phát lan rộng, ngài theo đàn chiên về nương náu tại chân đồi Đức Mẹ Trà Kiệu, cùng với giáo xứ Xuân Thạnh làm nên xứ Thạnh Quang. Bước đường di tản chưa chấm dứt. Năm 1965 cha con dắt dìu nhau về vùng đất cát Hòa Khánh lập nên giáo xứ Phước Quang bên cạnh các giáo xứ di cư khác như Phước Thành, Phước Nghĩa, Phước Tân. Dù ở Trà Kiệu hay Hòa Khánh, nơi ăn chốn ở của trong các trại tị nạn là những mái tôn vách ván nối liền nhau tạm bợ sơ sài, và trong cuộc sống bấp bênh đầy biến động đó, chủ chiên Phanxicô Xaviê phải lo giữ vững đức tin cho đàn chiên mà quê cha đất tổ đang bị bom đạn cày nát.
Năm 1974 ngài được bổ nhiệm làm cha xứ Thanh Đức. Xứ đạo thành phố này như một trạm dừng để Chúa quan phòng chuẫn bị cho ngài bước vào một hành trình gian khổ với một sứ mệnh lớn lao. Quả thật qua năm sau vào ngày 6 tháng 6 năm 1975, ngài đón nhận sứ vụ giám mục tại nhà thờ Chính Tòa do Đức Cha tiên khởi giáo phận Phê-rô Maria Phạm Ngọc Chi trao ban. Hòa bình vãn hồi. Lịch sử nước nhà sang trang kéo theo những thay đổi sâu rộng trong đời sống chính trị xã hội và tôn giáo. Đức Cha Phanxicô Xaviê lấy khẩu hiệu giám mục là “Đến Để Phục Vụ” (Mt 20, 28) và huy hiệu là cây Thánh Giá trên đồi Golgotha. Ngài chọn cho mình và cho dàn chiên con đường mà Thầy Chí Thánh đã đi để cứu độ nhân loại: đường Thập giá, đường hi sinh từ bỏ cũng là đường bày tỏ sức mạnh và quyền năng Thiên Chúa trong những yếu đuối mỏng dòn của con người. Trên cương vị giám mục phó, kiêm tổng đại diện, rồi từ năm 1979, kiêm quản xứ Chính Tòa, Đức Cha Phanxicô Xaviê từng ngày từng bước đồng hành cùng Dân Chúa trong hành trình đức tin. Hòa nhã mà nghiêm túc, bao dung mà mực thước, ngài ân cần chăm sóc từng xứ đạo xa gần, ủi an khích lệ các nữ tu trong đời dâng hiến, củng cố tình huynh đệ linh mục. Trọng tâm mục vụ của ngài là lời cầu nguyện, các bí tích của Hội Thánh và đời sống khó nghèo khiêm tốn. Những bài giáo huấn đơn sơ mộc mạc của ngài rút ra từ Lời Chúa và kho tàng giáo huấn của Hội Thánh đem lại ánh sáng cho đàn chiên, hình thành cộng đồng Dân Chúa hiệp thông, kiên định trong đức tin giữa cơn sóng gió dòng đời.
Ngày 21 tháng giêng năm 1988, Đức Cha Phê-rô Maria từ trần và được an táng tại Trà Kiệu, ngài trở thành giám mục chính tòa. Chính sách đổi mới tạo điều kiện cho các sinh hoạt tôn giáo dần dà hồi phục và phát triển. Từ năm 1988, và các năm sau đó, Đức Cha Phanxicô Xaviê phong chức linh mục, bổ nhiệm thuyên chuyển, mở ra hội đoàn, huấn luyện giáo lý viên, ươm trồng ơn gọi, xây mới, tu sửa nhà thờ nhà xứ … Không thể nói hết ở đây những gì mà vị chủ chăn cần mẫn này cùng với các linh mục, nữ tu, chủng sinh và giáo dân, sát cánh nhau, mỗi người một việc, cùng làm để đem lại sức sống mới cho cộng đoàn Dân Chúa. Trong khi đó bản thân ngài luôn phải chống chọi với bệnh tật và tuổi cao sức yếu. Ngày 06 tháng 11 năm 2000, ngài nghỉ hưu tại Tòa Giám Mục, để đi tiếp đường phục vụ bằng đời sống cầu nguyện âm thầm, ẩn giấu đời mình mỗi ngày một hơn trong Thiên Chúa. Lúc 07 giờ 15 ngày 7 tháng 7 năm 2013, ngài được Cha trên trời gọi về kết thúc sứ vụ tại thế: 88 năm tuổi đời, 58 năm linh mục trong đó, 38 năm giám mục.
Xin cộng đoàn hiệp ý tạ ơn và cầu nguyện cho linh hồn người Cha Chung kính yêu: người đã đi vào lịch sử giáo phận và sẽ còn sống mãi trong tâm khảm mọi thành phần dân Chúa giáo phận như một Vị mục tử nhân lành suốt đời tự nguyện làm “tôi tớ anh em vì Đức Kitô” (2Cr 4,5b) , “đến để phục vụ” Hội thánh và con người.
Marcellô Đoàn Minh
Bài giảng Thánh Lễ An táng Đức Cha Phanxicô Xaviê Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản, Giám mục Ban Mê Thuột
(Ga 14, 1-6)
Anh chị em thân mến.
Sáng hôm nay, chúng ta cùng hiện diện bên ĐC F.X, để cầu nguyện và tiễn đưa ngài đến nơi an nghỉ cuối cùng. Có lẽ tất cả những người con trong giáo phận, những người đã từng có cơ duyên gặp gỡ ngài, đều cảm thấy luyến tiếc về sự ra đi của người cha, người mục tử nhân hậu và can đảm, đã khôn ngoan lèo lái con thuyền giáo phận trong thời gian đầy khó khăn, thử thách. Dẫu cho ngài nghỉ hưu từ năm 2000, nhưng hình ảnh của người cha già hiền lành, một tay chống gậy, một tay lần hạt mân côi, vẫn luôn là chỗ dựa vững chắc, không chỉ cho những đấng kế vị ngài, mà còn cho cả giáo phận nữa. Trước sự ly biệt này, làm sao lòng chúng ta không cảm thấy bồi hồi, xao xuyến, vì không muốn từ giã người cha thân yêu !
Như trong bài Tin Mừng hôm nay trình bày, các Tông Đồ, trong bữa Tiệc Ly, cũng cảm thấy bồi hồi, xao xuyến vì nghe Chúa Giê-su nói những lời ly biệt : « Thầy còn ở với anh em một ít nữa thôi », và đặc biệt là lời cảnh báo thánh Phê-rô : « Thầy bảo thật cho anh biết : gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần » (Ga 13, 33 và 37). Trạng thái xúc động kéo dài này, Chúa Giê-su cũng đã từng trải qua khi đứng trước ngôi mộ của Lazarô (11, 33), khi những người Hy-lạp lên Giê-ru-salem mừng lễ muốn diện kiến Người (12, 27), khi báo tin cho các môn đệ biết là một người trong nhóm 12 sẽ phản bội (13, 21). Để vượt qua tâm trạng xao xuyến, bối rối này, với kinh nghiệm của mình, Chúa Giê-su mời gọi các môn đệ : « Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy ». Làm thế nào mà sự tin tưởng vào Chúa có thể giúp cho các môn đệ vượt qua tâm trạng sợ hãi bối rối, để nhìn thấy Chúa luôn hiện diện trước mặt mình ? Tôi không thể giải thích một cách rõ nét về mối tương quan này, nhưng nhìn vào cuộc đời của Đức Cha Phanxicô Xaviê, chúng ta có thể cảm nhận được đôi chút.
Được chọn làm giám mục phó giáo phận Đà-nẵng vào tháng 06/1975, nghĩa là cùng chia sẻ trách nhiệm với Đức Cha Phê-rô Phạm Ngọc Chi, và có thể thay thế ngài vào bất cứ lúc nào. Những người am hiểu thời cuộc vào lúc bấy giờ đều cảm thấy lo ngại cho Đức Cha Phanxicô Xaviê. Lúc ấy, một người bạn thân của ngài, mộtlinh mục đã từng làm việc ở Đà Nẵng rồi về nhận nhiệm sở ở giáo phận Qui Nhơn, có nói rằng : « Đức Cha Phanxicô Xaviê thật là can đảm khi dám nhận chức vụ Giám Mục phó Đà-nẵng trong lúc này ». Lời khen « can đảm » này có thể phát xuất từ sự khâm phục chân thành, nhưng cũng có thể là một sự thươngcảm cho người bạn chưa được già dặn về kinh nghiệm sống trong xã hội mới chăng ?
Dẫu cho người ta có nghĩ gì, thì Đức Cha Phanxicô Xaviê đã có một lựa chọn căn bản : Tin tưởng vào Chúa và phó thác cho sự lựa chọn của Người ; vâng theo ý Chúa theo gương Thầy Chí Thánh.Vì thế, ngài đã chọn khẩu hiệu giám mục của mình là « để phục vụ ». Câu này được rút ra từ Tin Mừng Mt : « Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người » (Mt 20, 28). Đức Cha Phanxicô Xaviê không chỉ lựa chọn hướng đi của người mục tử trong hoàn cảnh mới bằng sự phục vụ, mà còn hiến dâng mạng sống nữa. Khi một người mục tử không còn nghĩ đến vinh quang của bản thân, đã dám lựa chọn hiến dâng mạng sống vì một lý tưởng cao đẹp, thì điều gì có thể làm cho người đó sợ hãi, nhát đảm nữa ? Hình ảnh của người mục tử nhân lành, « đến để cho chiên được sống và sống dồi dào » (Ga 10, 10) ẩn hiện sau quyết định can đảm của Đức Cha Phanxicô Xaviê.
Vì lựa chọn con đường « phục vụ », nên cung cách phục vụ trong khiêm nhường và yêu thương là điểm nổi bật trong cuộc đời của Đức Cha Phanxicô Xaviê. Hầu như các linh mục và giáo dân Đà-nẵng đều tìm thấy nơi ngài tâm tình của người cha nhân hậu và yêu thương. Những lời kể về tiểu sử của ngài do cha hạt trưởng Trà Kiệu vừa trình bày đã nói lên điều đó. Ngài biết vun trồng tình bạn, là chỗ dựa cho cuộc đời mục tử, và quan tâm đến những người mà ngài gặp gỡ. Ngài thường dặn các soeurs làm việc trong tòa giám mục: “Giáo phận mình nghèo lắm, không có gì để biếu cho những vị khách đến thăm, thì chúng con hãy nở những nụ cười thật tươi”. Tôi còn nhớ, mỗi lần ngài có dịp vào Qui Nhơn thăm ĐC Phaolô Huỳnh Đông Các, hoặc là khi ĐC Qui Nhơn ra Đà-nẵng, ngoài những giờ tâm sự hàn huyên giữa hai người mục tử, khi chia tay, còn tiễn đưa nhau 10 dặm đường như những người bạn tri kỷ ngày xưa. Các linh mục, chủng sinh của giáo phận Qui Nhơn, mỗi lần ra tới Đà-nẵng, không quên tới thăm ngài, và ngài cũng không bao giờ quên lì xì tiền về xe khi chia tay. Chính bản thân tôi, khi còn là chủng sinh, cũng đã được ngài thương yêu như thế.
Anh chị em thân mến,
« Tin tưởng vào Thiên Chúa », nghĩa là đặt niềm tin vào Lời Người, dấn thân theo Lời Người mời gọi, bước đi trong ánh sáng của Người. Chính khi bước đi trong ánh sáng của Đức Kitô, mà người mục tử F.X. Nguyễn Quang Sách đã dẫn đưa đàn chiên vượt qua những giai đoạn khó khăn, cả về vật chất lẫn tinh thần, để luôn trung tín với Thiên Chúa tình yêu. Khi bước theo Chúa Giê-su là Đường, là sự thật và là sự sống với tất cả khả năng và lòng yêu mến của mình, Đức Cha Phanxicô Xaviê đến lượt mình, cũng đã trở thành một Kitô khác, người đã chọn lý tưởng mục tử « để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người ».
Chúng ta tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội Việt Nam một vị mục tử thánh thiện, đã ban cho giáo phận Đà Nẵng một vị chủ chăn hiền lành, khôn ngoan và can đảm..
Chúng ta cầu xin Chúa ban cho những cố gắng và hy sinh mà ĐC F.X. đã đổ ra trên mảnh đất này, được tiếp tục đơm hoa kết trái, không những trong tâm hồn của mọi người tín hữu trong giáo phận, mà còn thu lượm được dồi dào trên cánh đồng truyền giáo.
Chúng ta cũng thành khẩn cầu xin Chúa tha thứ cho những thiếu sót của ĐC F.X. trong trách nhiệm của người mục tử, cũng như trong thân phận con người. Xin Chúa thương đưa ngài về thiên quốc, hưởng phần thưởng dành cho người đầy tớ trung tín. Amen.
THIÊN THƯ ĐÃ KHÉP LẠI.
ĐỨC GIÁM MỤC PHANXICÔ XAVIÊ
NGUYỄN QUANG SÁCH QUA ĐỜI.
Khẩu Hiệu : SED MINISTRARE. “Ðến để Phục Vụ”
TIỂU SỬ
Đức Cha Phanxicô Xaviê NGUYỄN QUANG SÁCH Nguyên Giám mục Giáo phận Đà Nẵng
Sinh ngày 25 tháng 5 năm 1925 tại An Ngãi, Hoà Sơn, Đà Nẵng – 1938 – 1945 : Học Tiểu chủng viện Làng Sông, Quy Nhơn. – 1945 – 1954 : Học Đại Chủng viện Quy Nhơn. – 1954 – 1955 : Học Đại Chủng viện Thánh Giuse, Sài Gòn. – 1955 – 1956 : Giáo sư Tiểu Chủng viện Nha Trang. Ngày 08/8/1956 : Thụ phong Linh mục tại Nha Trang do Đức Cha Piquet Lợi. – 1956 – 1957 : Phó xứ Nhà thờ Chính Tòa, Quy Nhơn. – 1957 – 1958 : Quản xứ Phước Tường, Đà Nẵng. – 1958… : Quản xứ Thuận Yên, Quảng Nam. – 1958 – 1960 : Quản xứ La Nghi, Quảng Nam. – 1960 – 1965 : Quản xứ Xuyên Quang, Quảng Nam. – 1965 – 1974 : Quản xứ Phước Quang, Hòa Khánh, Đà Nẵng. – 1974 – 1975 : Quản xứ Thanh Đức, Đà Nẵng. Ngày 06/6/1975 : Tấn phong Giám mục tại Nhà thờ Chính Tòa, Đà Nẵng. – 1975 – 1988 : Giám mục Phó kiêm Tổng Đại diện Giáo phận Đà Nẵng. – Ngày 21/01/1988 : Giám mục Giáo phận Đà Nẵng. – Ngày 06/11/2000 : Nghỉ hưu tại Tòa Giám mục Đà Nẵng. Qua đời ngày 07/7/2013 tại Tòa Giám mục Đà Nẵng. Hưởng thọ 88 tuổi.
TIN TỨC VỀ ĐỨC CHA F.X. NGUYỄN QUANG SÁCH NHỮNG NGÀY QUA;
22 tháng 6 năm 2013
Sau 2 tuần nằm viện, sức khoẻ thể chất và cả tâm trí của Đức Cha Phanxicô mỗi ngày một cạn kiệt.
Một tuần nay, Ngài trằn trọc trên giường, không còn có thể dùng chiếc ghế xếp mà Ngài ưa thích nữa, cũng không thể lần hạt thường xuyên như trước đây. Ăn uống khó khăn, không kiểm soát được bài tiết, vệ sinh tại chỗ… Các y bác sĩ tại bệnh viện Đa Khoa Đà Nẵng đang tiếp tục theo dõi và điều trị cho Ngài. Ngài được
28 tháng 6 năm 2013
Sau 3 tuần lễ được điều trị tại bệnh viện, sức khoẻ của Đức Cha Phanxicô Xaviê ngày một suy giảm. Tham vấn ý kiến của các bác sĩ, chiều 28/6/2013, Tòa Giám mục đã đưa Ngài về nhà để thuận lợi việc chăm sóc và tiếp tục điều trị ngoại trú. Xin cộng đồng Dân Chúa Giáo phận tiếp tục cầu nguyện cho Ngài
Thứ bảy 06/7/2013
Vài ngày sau khi từ bệnh viện về Tòa Giám mục vào chiều Thứ Sáu ngày 28/6/2013, Đức Cha Phanxicô Xaviê có vẻ tỉnh táo hẵn. Ngủ ngon, lúc thức có thể trao đổi thông tin ngắn gọn với mọi người, tham dự Thánh Lễ mỗi sáng do Đức Cha Giuse dâng ngay tại phòng. Nhưng từ vài ngày nay, nhất là hôm nay, Thứ Bảy ngày 06/7/2013, sức khoẻ của Ngài giảm sút thấy rõ. Rất ít ngủ, trằn trọc, không quan tâm đến những gì chung quanh nữa, mắt lại nhắm nghiền, hơi thở khó khăn, phải thở oxy và dùng liệu pháp khí dung để trợ giúp phổi.
CHÚA NHẬT 7 tháng 7 năm 2013
Đức Cha Phanxico Xavie đã được Chúa gọi về lúc 07g15 sáng nay, Chúa Nhật ngày 7/7/2013
GIÃ TỪ TRẦN THẾ PHÙ VÂN, CÁC VỊ DỰ TIỆC TRÊN QUÊ TRỜI.
RÔMA MÙA XUÂN 1996. ẢNH TRƯỜNG THĂNG.
Ngày | Sự kiện | Chức vụ |
25/05/1925 | Sinh | Tại An Ngãi |
9/08/1956 | Thụ phong Linh Mục | Giáo phận |
6/06/1975 | Ðược bổ nhiệm | Giám Mục Phó Giáo Phận Ðà Nẵng, Việt Nam |
6/06/1975 | Thụ phong Giám Mục | Giám Mục Phó Giáo Phận Ðà Nẵng, Việt Nam |
21/01/1988 | Kế nhiệm | Giám Mục Chánh Tòa Giáo Phận Ðà Nẵng, Việt Nam |
6/11/2000 | Hưu dưỡng | Giám Mục Chánh Tòa Giáo Phận Ðà Nẵng, Việt Nam |
SG 11 GIỜ 07 THÁNG 7 NĂM 2013.
TIẾNG CỒNG XÊ ĐĂNG TAN TRONG MƯA RỪNG.
LINH MỤC GỐC XÊ ĐĂNG CALISTÔ BÁ NĂNG LÝ QUA ĐỜI.
Bình luận về bài viết này