KỶ NIỆM NHỚ ĐỜI.
HỒI KÝ Ý NHẠC II 1948 -1999. (BÀI 4)
5 NĂM TẠI ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE SÀI GÒN
(1950 – 1955)
Theo thông lệ, qua nữa niên học, các thầy lớp Thần học I về nghỉ một tháng chuẩn bị khi tựu trường sẽ chịu chức “Cắt Tóc” và đi giúp xứ một năm. Riêng tôi, ngày 7 tháng 3 năm 1953, nhân dịp lễ tấn phong linh mục cho thầy Huỳnh Nhẫn tại Nhà thờ Chánh Tòa Nha Trang do Đức Giám mục Địa Phận chủ phong, tôi cũng hân hạnh được lãnh chức Cắt Tóc, vì tôi đã đi giảng hai năm tại Tiểu Chủng viện Phan Rang (như đã nói trên), nên tựu trường nhập vào lớp đàn anh (vừa mãn năm thử trở về) tiếp tục cho đến hết năm Thần học I.
Tháng 8 năm 1953 mãn Thần học I, tôi được Đức Giám mục đặc ân cho phép về quê họ đạo An Ngãi (Quảng Nam) thăm gia đình. Tôi đáp tàu thủy từ Sài Gòn ra Đà Nẵng. Về đến nơi thì được biết Anh Hai tôi đã bị Việt Minh bắt dẫn lên núi và mấy tuần sau đưa ra “tòa án nhân dân” xử bắn (về tội đi bộ đội bất mãn đào ngũ về xã chỉ huy lực lượng tự vệ chống lại Việt Minh). Trong kỳ nghỉ này, được tin trong xã có lệnh cho dân, ai bị mất giấy tờ hộ tịch có thể lên tỉnh xin “Chứng Thư Thế Vì Khai Sinh” và làm căn cước luôn. Tôi nghĩ ngay đến hai người bạn cùng đồng lớp bị động viên đi sĩ quan Thủ Đức, sợ sẽ đến lượt mình nên nhân dịp này lên tỉnh Quảng Nam (ở Hội An) làm lại khai sinh mới, đổi họ tên cũ Nguyễn Khánh Thọ thành Nguyễn Ý Nhạc và sử dụng tên này cho đên nay.
Sau một tháng nghỉ, tôi đi máy bay của hãng Hàng Không Dân Sự COSARA từ Đà Nẵng vào Sài Gòn. Tựu trường, tôi cùng các thầy lớp Thần học I được phong 2 chức nhỏ gọi là chức 1 (Giữ cửa) và chức 2 (Đọc sách) và bắt đầu lên Thần học II niên học 1953 – 1954…
Không ngờ vào tháng 5 năm 1954 có lệnh tổng động viên toàn quốc gọi các thanh niên trong hạn tuổi 21 đến 26 có trình độ tú tài 1 phải trình diện theo học khóa sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Đây là lệnh gọi tập thể nên mặc dầu tôi đã thay đổi tên họ nhưng không tăng tuổi, đành phải cùng một số thầy lên đường nhập ngũ. Qua thủ tục khám sức khỏe, tất cả đều được chứng nhận hội đủ điều kiện chỉ đợi giấy gọi nhập ngũ.
Cùng lúc đó, vào dịp bãi trường kỳ 2, Đức Giám mục vào gặp các thầy Quy Nhơn bảo lần nghỉ này nên ở lại Đại Chủng viện. Tôi nghĩ mình sắp đi lính nên đánh bạo vào gặp riêng Đức Cha xin phép được về Nha Trang thăm bà con. Ngài chỉ đáp: “Con có tiền thì cứ về!”. Tôi lầm tưởng ngài đồng ý nên mua vé xe đò đi ngả Đà Lạt rồi xuống Phan Rang, mỗi nơi thăm chơi vài ngày – mới ra Nha Trang. Khi vào trình diện Đức Giám mục, ngài cự nự bảo sao không ở lại trường “dọn mình” đi lính, ra đây làm gì… Tôi thật tình thưa lại: “Con xin phép và Đức Cha đã cho rồi!”. Ngài làm thinh tỏ vẻ không bằng lòng… Tôi cúi chào lui ra.
Vì đinh ninh lần này tựu trường sẽ gia nhập trường sĩ quan Thủ Đức nên trong khi các thầy nhập học đông đủ, tôi trở lại Đà Lạt “nghỉ mát” gần một tháng mới vào. Rủi cho tôi, khi đến Đại Chủng viện xuống trình diện Cha Bề Trên lại gặp Đức Giám mục ngồi ở đó, ngài nghiêm giọng hỏi gằn: “Sao tựu trường trễ?”. Rủi nữa là được tin Cha Bề Trên đã vận động cho anh em chúng tôi được hoãn dịch vì lý do tôn giáo.
Tôi đành trở lại lớp tiếp tục cho hết niên học. Đến kỳ hạn, tôi làm đơn xin chịu chức 3 (Trừ quỷ) và 4 (Cầm đèn), nhưng bị Đức Giám mục từ chối (có nghĩa là cầm chức). Tôi viết cho Đức Giám mục lá thư dài kể lể oan tình và xin cho biết lý do bị cầm chức. Ngài không trả lời… Kỳ nghỉ cuối niên học, Đức Giám mục phạt tôi ở lại Đại Chủng viện trong khi các thầy Quy Nhơn được về nghỉ tại Nha Trang. Cùng ở lại với tôi, có thầy Trinh thuộc Địa Phận Kontum (học dưới tôi 2 lớp, sau làm linh mục và đã qua đời) vì đường sá xa xôi không về quê được. Hai anh em được Cha Bề Trên cho phép đi thăm 3 tỉnh miền Tây thuộc Địa Phận Vĩnh Long. Chúng tôi được 3 thầy ở địa phương tiếp đón và tình nguyện hướng dẫn đi thăm nhiều họ đạo lớn, nhỏ như: Vĩnh Long, Mai Phốp, Mặc Bắc, Giồng Rùm, Rạch Vồn, Chà Và, Trà Vinh, Bãi Xan, Rạch Dầu, Cái Mơ, Bến Tre… Đến đâu cũng được linh mục chánh xứ tiếp đãi nồng hậu. Một chuyến viễn du hữu ích và thích thú khiên tôi khuây khỏe nỗi buồn ấm ức…
Niên học 1954 – 1955, dù bị cầm chức tôi vẫn lên lớp Thần III. Kỳ nghỉ 1 vào tháng 12 năm 1954, Đức Giám mục lại ưu ái cho phép tôi về thăm quê nhà lần nữa. Cùng đi với tôi có thầy Sách cùng quê, vừa ở Quy Nhơn (vùng Việt Minh) trốn vào Nha Trang được Đức Giám mục gởi vào Đại Chủng viện Sài Gòn tiếp tục tu học (hiện nay là Giám mục Đà Nẵng nghỉ hưu). Chúng tôi đáp máy bay từ Sài Gòn ra Huế du ngoạn danh lam thắm cảnh, được 2 thầy địa phương hướng dẫn đi thăm những cơ sở Công giáo như Tiểu Chủng viện, nhà Dòng kín, Đan Viện Thiên An, Đền Đức Mẹ La Vang, họ đạo Cổ Vưu (Quảng Trị) cùng các di tích lịch sử ở Cố đô như Thành Nội, các lăng tẩm Minh Mạng, Tự Đức, Khải Định, Chùa Thiên Mụ, Hồ Tịnh Tâm… Sau đó, chúng tôi đi xe lửa vào Đà Nẵng về quê chuẩn bị đón Tết.
Trở lại Đại Chủng viện vào tháng 3 năm 1955, tôi được chịu hai chức 3 và 4 tại Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn do Đức Giám mục Phạm Ngọc Chi chủ phong. Học hết kỳ 2, bãi trường, tôi theo các thầy Quy Nhơn về nghỉ tại Toà Giám Mục Nha Trang.
Theo thông lệ, những thầy đã chịu chức 4 (dù bị cầm chức hay không) cũng phải đúng hạn kỳ 1 năm mới có thể làm đơn xin chức 5 (chức Tuỳ Phó Tế). Như vậy, tôi phải chậm lại nữa năm, tức là vào khoảng tháng 3 năm 1956. Nhưng không ngờ, trước khi rời Nha Trang vào Sài Gòn để tiếp tục kỳ 3 niên học 1954 – 1955, Đức Giám mục gọi riêng tôi vào, vui vẻ bảo: “Kỳ này vào, con làm đơn xin chịu chức 5, Cha sẽ phong cho con!”. Tôi vui mừng, cảm thấy an tâm và hy vọng, thầm nghĩ có thể Đức Giám mục đã xét lại trường hợp của tôi nên mới thay đổi thái độ.
Đến kỳ hạn, tuân theo lời dặn của Đức Giám mục tôi cũng làm đơn xin chịu chức 5 như các thầy đồng lớp. Sau mấy tháng nóng lòng chờ đợi thì một buổi chiều gần ngày bãi trường, Đức Giám mục từ Nha Trang vào Đại Chủng viện gọi riêng từng thầy Quy Nhơn (có đơn xin) vào gặp để thông báo kết quả. Đến lượt tôi, ngài nghiêm túc nói vỏn vẹn một câu: “Chúa không chọn… Con nên về thế gian!”. Thế là xong! Tôi không còn nhớ tâm trạng của mình lúc đó ra sao. Tôi chỉ biết cuối đầu “xin vâng”, rồi thơ thẩn bước ra… Qua 14 năm tu luyện gian khổ chỉ còn một năm đạt thành chí nguyện nhưng mộng ước tan theo mây khói…
Ngày bãi trường, tôi mãn lớp Thần học III, các thầy cùng lớp về nghỉ một tháng, trở vào nhận chức 5, bắt đầu lớp Thần học IV niên khoá 1955 -1956, và sẽ thụ phong linh mục. Các thầy Quy Nhơn được về nghỉ tại Toà Giám mục Nha Trang. Riêng tôi uể oải lo thu dọn khăn gói vĩnh viễn giã từ “Nhà Chúa”, trở về đời sống giáo dân với thân phận một thầy xuất TARU.
( CÒN TIẾP)
Ý Nhạc Nguyễn Khánh Thọ
SAN GABRIEL , Los Angeles, California tháng 3, 1999.
CHÚ THÍCH:
TARU nói lái theo lối miền Nam là TU RA, cũng có tiếng lóng khác là BONAVENTURA, nói “toẹt” là THẦY XUẤT, Tu ra cũng có nhiều lý do tiềm ẩn…đâu phải họ có tội hoặc “mê thế gian đâu”.
Chị Xuân Đà Lạt sau khi đọc lại đoạn nầy nhắn tin:
“Năm 1953 lúc đó được gặp lại chú Thọ ở tại Đà Lạt. su một thời gian dài khá lâu. Từ lúc nhỏ con theo chú làm bà xơ để phụ giúp chú dọn bàn thờ để chú làm lễ với bao nhiêu giáo dân tí hon và chuyên môn đi hát kinh để đưa xác các chú chuột., chú thằn lằn, ve, chôn dưới cây sợp trước nhà. ( Xem Một Cơn gió thoảng , bài 6)
Nhắc lại khi chú đến Đà Lạt, Xuân dã có 2 mặt con. Đang cho con bú nghe có người bảo có cha nào dên thăm chị, ngồi đọi chị. Xuân chạy ra thấy, chẳng nhớ ai nên khoanh tay : Con chào cha. Khi đó chú nói: chưa làm cha đâu, nên gọi là thầy Thọ mà thôi.
Mừng mừng và nhớ lại lúc nhỏ vẫn gặp nhau hàng ngày.
Xuân, Ottawa nag2y 17/10/2011.
Chị Xuân ơi, đám tang đi xa nhỉ…trên 100 mét. “Đồng nương má” không còn vì dân sống đông đảo quanh, nhưng cây sợp vẫn còn đó.
Bây giờ nom nó bé lại.
Ý Chúa, lúc nào chúng ta cũng phải cắt nghĩa là Ý Chúa.
Nhưng ý Chúa lại đi qua ý con người trước!
Anh không đi tiếp cũng hay…
Người như anh…làm cha “ quậy” ai chiu nổi! Hihi.
Chị Xuân ơi, đây là mộ phần thân phụ mẫu chị tại Nghĩa trang Giáo xứ An Ngãi Đà Nẵng. Em chị BA TÒNG trước khi liệt giường đã hoàn thành mộ với trang trí các thánh Tôma Aquinô và Anna ( ?) khá đẹp, do tự tay “nghệ nhân dân gian” làm.
Bình luận về bài viết này